Hôm nay,  

Đấu Tranh Bất Bạo Động

28/01/200800:00:00(Xem: 9384)

Hôm Thứ Sáu 25/1/2008 tại trụ sở của Giáo hội Công giáo Việt Nam tại Hà Nội gần tòa Khâm sứ cũ của giáo hội đã xẩy ra một vụ xô xát giữa giáo dân và công an. Nhiều người vội cho rằng Giáo hội Công giáo bỏ đường lối đấu tranh bất bạo động và chuyển sang hình thức bạo động. Tôi không tin lối lý luận đó là đúng.

Những gì giáo dân đã làm trước hành động công an đánh đập một phụ nữ chân yếu tay mềm và một luật sư chỉ muốn đem hiểu biết về luật của mình giải bày với lực lượng công an là một hành động đúng và hoàn toàn nằm trong nguyên tắc bất bạo động.

Đài Tiếng nói Tự do Á châu (RFA) trong buổi phát thanh sáng Thứ Bảy 26/1/2008 giờ Việt Nam tường thuật rằng trong ngày Thứ Sáu 25/1/2008, khoảng 3000 giáo dân thuộc nhiều giáo xứ tại các tỉnh miền Bắc, có sự hiện diện của đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn đến từ Sài gòn và hơn 100 linh mục đã tề tựu tại trụ sở giáo hội tại Hà Nội để mừng lễ thượng thọ 90 tuổi của đức Hồng Y Phạm Đình Tụng, đồng thời cầu nguyện xin ơn trên chuyển hóa tâm thức những người lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam để họ trả lại các cơ sở tôn giáo, đặc biệt là tòa Khâm sứ tại Hà Nội mà chính quyền cộng sản đã chiếm từ năm 1954 khi họ thiết lập chính quyền cộng sản sau Hiệp định Geneva.

Cuộc cầu nguyện đã diễn ra trong trật tự, hòa bình, hoàn toàn không có tính khiêu khích lực lượng công an được huy động tới để giữ trật tự. Khi một phụ nữ thuộc dân tộc Mường trèo qua tường để đến dâng hoa cho đức Mẹ (trong khuôn viên đất vốn thuộc tòa Khâm sứ và nay chính quyền chiếm), công an đã kéo đến đánh đập người phụ nữ này. Luật sư Lê Quốc Quân, một giáo dân tham dự buổi lễ cầu nguyện nghe tiếng la của người phụ nữ đã trèo qua tường với mục đích giải thích cho lực lượng công an hành động như vậy là trái pháp luật. Vào bên trong, luật sư Quân chưa kịp nói gì anh đã bị đánh tới tấp. Nghe tiếng la của luật sư Quân và người phụ nữ Mường, giáo dân bức xúc phá bức tường tràn vào khu đất bị chiếm với mục đích giải thoát cho luật sư Quân và người phụ nữ. Trước khí thế của giáo dân, lực lượng công an bỏ chạy và luật sư Quân và người phụ nữ được giải thoát. Đoàn giáo dân không hề lợi dụng tình hình để gây ra bất cứ một hành động khiêu khích nào khác. Ổn định đã trở lại sau đó.

Có thể nói đây là lần đầu tiên kể từ năm 1975, giáo dân tại Việt Nam đã biểu thị một thái độ và một định nghĩa thế nào là đấu tranh bất bạo động.

Bất bạo động như một nguyên tắc để giải quyết mâu thuẫn giữa các thế lực chính trị trong một nước hay tranh chấp giữa các quốc gia là khuôn mẫu của thế giới hôm nay, và được xem như là một chân lý để giải quyết sự khác biệt đồng thời giữ gìn được sự ổn định của thế giới.

Nguyên tắc bất bạo động trên thế giới bắt nguồn từ cuộc tranh đấu giành độc lập của Ấn độ cầm đầu bởi Mohandas K. Gandhi trong thập niên 1930 kéo dài cho đến năm 1947 khi Anh trao trả độc lập cho Ấn. Ông Gandhi chủ trương bất hợp tác với nhà cầm quyền Anh và bất bạo động một cách tuyệt đối, và sau khi thành công nhân dân Ấn độ đã tôn ông lên bật thánh (Mahatma Gandhi), và năm 2007 Liên hiệp quốc đã chọn ngày 2 tháng 10 là ngày sinh của ông để làm ngày “bất bạo động quốc tế” (thánh Gandhi sinh ngày 2/10/1869 và mất ngày 30/1/1948). Tuy nhiên cần hiểu ý nghĩa tại sao thánh Gandhi chọn đấu tranh bất bạo động thì cuộc đấu tranh bất bạo động mới có ý nghĩa.Đế quốc anh cai trị Ấn độ bằng bạo lực. Nhưng nước Anh có một cơ chế tư pháp độc lập và họ vẫn áp dụng tại Ấn độ. Theo lời  dạy của thánh Gandhi dân bất mãn với các chính sách của chính phủ Anh có thể xuống đường biểu tình phản đối, và khi bị cơ quan công lực người Anh (và người Ấn làm việc cho người Anh) dùng bạo lực dân chúng không được chống cự trong bất cứ trường hợp nào, để cho lính Anh và lính Ấn dùng vũ lực đánh đập thỏa thích. Các vụ đàn áp này sẽ được các luật sư đấu tranh kiện ra tòa và – đây là điểm chính yếu – tòa án Anh có đủ quyền tư pháp độc lập để xử một cách công minh và những người thuộc cơ quan an ninh đã dùng bạo lực ngoài pháp luật sẽ bị trừng phạt.

Ngoài ra báo chí của Anh hiện diện tại Ấn độ cũng có quyền tự do loan tãi tin tức không bị hạn chế nên những cảnh đàn áp dã man của người Anh thường được trưng bày trước công luận tại nước Anh và trên thế giới. Cho nên nguyên tắc bất bạo động của thánh Gandhi không có nghĩa ông ta khuyên dân cứ để cho bạo lực ngự trị một cách tự do vô giới hạn. Ông nhắm tìm sự công bình trong cuộc tranh đấu bằng sự chịu đựng trước để làm thức tỉnh lương tâm thế giới, nhất là lương tâm của nhân dân Anh và những kẻ nhúng tay vào các hành động đàn áp sẽ bị trừng phạt sau. Thánh Gandhi tin tưởng rằng sự chịu đựng trước (công lý sẽ đến sau) trong một hệ thống còn biết tôn trọng đạo lý và lẽ phải cuối cùng sẽ đem lại sự thắng lợi cho nhân dân Ấn độ . Thánh Gandhi đã có lý, cuối cùng trước cao trào giành độc lập trên thế giới Anh đã trả tự do lại cho nhân dân Ấn độ.  

Ngày hôm nay nguyên tắc bất bạo động vẫn phải là một nguyên tắc đấu tranh căn bản chống các chế độ độc tài toàn trị. Và các lực lượng đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam hiện nay đều công khai tuyên bố theo đường lối bất bạo động. Nhưng trước một chính quyền toàn trị, không có báo chí tự do, không có một nền tư pháp độc lập, những kẻ nhúng tay vào tội ác đàn áp nhân dân sẽ không bao giờ được xử trị thì phải hiểu “bất bạo động” theo một nghĩa thực tế mà vẫn hợp với đạo lý và lẽ phải chung nhất của lương tri.

Bất bạo động cần được hiểu là người dân sẽ bày tỏ các đòi hỏi hợp lý của mình một cách ôn hòa, trong trật tự và không dùng vũ khí. Và dù giải quyết hay không, chính quyền phải để cho dân bày tỏ các sự bất mãn của mình trong trật tự và ôn hòa. Nếu chính quyền vô cớ dùng bạo lực đàn áp, và nếu người dân chịu đựng mà biết rằng “công lý đến sau” không bao giờ tới thì người dân có quyền tự vệ bằng tay không dù bản thân phải đổ máu. Đó là nguyên tắc “bất bạo động” trong nghĩa triệt để nhất của danh từ bất bạo động. Bất bạo động là một phương thức đấu tranh để đạt một kết quả nhất định cho công bình và lẽ phải chứ không phải là sự chịu đựng thuần túy để chờ sự một sự phán xét không bao giờ tới.

Trong bối cảnh đó phản ứng của giáo dân hôm Thứ Sáu 25/1/2008 tại Hà Nội dù làm cho những người công an hung dữ vô cớ đánh đập một phụ nữ chân yếu tay mềm và một luật sư tay không phải hoảng sợ bỏ chạy không phải là một hành động dùng bạo lực chống bạo lực mà là một hành động đấu tranh bất bạo động theo nghĩa phù hợp với lẽ đúng sai chung nhất của trời đất.

Sự phẫn nộ của những giáo dân trước hành động tàn bạo của cơ quan an ninh cộng sản là một phản ứng xuất phát từ sự nhận chân nhanh chóng của tập thể đâu là lẽ phải, không ngại nguy hiểm cho bản thân và dấn thân hành động. Người giáo dân đã không đi ra khỏi nguyên tắc bất bạo động chính danh và xứng đáng là một thành phần của một dân tộc hào hùng bất khuất.

Phản ứng của giáo dân hôm Thứ Sáu 25/1/2008 tại Hà Nội đánh đấu một bước ngoặc trong cuộc đấu tranh giành lẽ phải, nhân quyền, dân chủ và tự do cho đất nước và dân tộc, mà không vượt qua nguyên tắc đấu tranh bất bạo động một cách chính danh.

Đó là một tấm gương sáng cho mọi đoàn thể đấu tranh tại Việt Nam để thôi không còn núp dưới chiêu bài “bất bạo động” hiểu theo nghĩa hẹp hòi ủy mị để không làm gì cả dù đứng trước mọi bất công. Cuộc đấu tranh của giáo dân sẽ làm cho khối nhân dân Việt Nam còn vô cảm như một khu rừng toàn cây xanh biến thành một khu rừng có cành khô để bắt những ngọn lửa lẻ loi nhóm lên bởi một số ít ỏi những nhà đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền ở trong nước.

Trần Bình Nam

Jan. 26, 2008

[email protected]

www.tranbinhnam.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.