Hôm nay,  

Khủng Hoảng Lúa Gạo

30/04/200800:00:00(Xem: 10175)

...vừa được mùa lúa gạo mà dân trong Nam lại hốt hoảng sợ thiếu ăn...

Tuần qua, khi mà dân chúng Việt Nam cũng hốt hoảng về nạn thiếu gạo vì giá cả tăng vọt, vụ khủng hoảng về lúa gạo ở khắp Á châu đã thực tế tràn vào Việt Nam, một quốc gia đứng hàng thứ nhì thế giới về xuất khẩu gạo. Diễn đàn Kinh tế của đài RFA sẽ tìm hiểu về cuộc khủng hoảng và những giải pháp có thể áp dụng trong tương lai, qua cuộc trao đổi cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa do Việt Long thực hiện sau đây.

Hỏi: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, cuối tuần qua, cơn sốt gạo đã nổi lên tại Việt Nam khi rất nhiều người đổ xô mua gạo phòng ngửa và nạn đầu cơ tích trữ có xảy ra. Như vậy, vụ khủng hoảng lúa gạo đã thực tế tràn vào một quốc gia đứng hàng thứ nhì thế giới về xuất khẩu gạo và vừa được mùa thu hoạch rất khả quan tại vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Vì lý do đó, mặc dù cơn sốt gạo tại Việt Nam có vẻ đã tạm lui từ hai ngày qua chúng tôi vẫn đề nghị là trong chương trình chuyên đề tuần này, ta sẽ cùng tìm hiểu về cuộc khủng hoảng đó và về những biện pháp mà các nước trên thế giới có thể áp dụng.

Câu hỏi đầu tiên thưa ông, vì sao khủng hoảng lúa gạo đã bùng nổ vào lúc này khi nhiều nước sản xuất gạo đã hoặc sắp tới mùa gặt được thế giới dự đoán là khả quan"

- Vụ khủng hoảng lúa gạo chúng ta đang chứng kiến là một phần của vụ khủng hoảng vì lương thực tăng giá phi mã, mà diễn đàn này đã nhiều lần đề cập tới từ cuối năm ngoái. Gạo là nguồn lương thực chính của nhiều người, nhất là tại Á châu trong đó có Việt Nam. Thành phần dân chúng nghèo đói nhất lại bị ảnh hưởng nặng nhất nên khủng hoảng lúa gạo có thể dẫn tới khủng hoảng xã hội là điều đã xảy ra cho 37 quốc gia trên thế giới, tính tới tuần này. Vụ khủng hoảng lương thực nghiêm trọng đến độ Tổng thư ký Liên hiệp quốc đã triệu tập một phiên họp bất thường trong hai ngày đầu tuần tại Thụy sĩ để cùng các tổ chức quốc tế tìm phương cách đối phó.

Hỏi: Như vậy, khủng hoảng lúa gạo là một phần của cuộc khủng hoảng về lương thực, nhưng đó là một phần lớn hay nhỏ tới chừng nào"

- Trong các loại ngũ cốc, gạo là lương thực đứng hàng thứ nhì sau lúa mì và là nguồn lương thực chính của các nước châu Á. Dân số thế giới có sáu tỷ người thì hơn 15%, tức là hơn một tỷ người là thành phần nghèo đói, có lợi tức bình quân là dưới một đô la một người trong một ngày, nghĩa là thu nhập cả năm chưa được tới 360 Mỹ kim. Trong số này, hơn hai phần ba là những người ăn gạo tại châu Á, tức là khoảng 700 triệu người. Họ mất chừng 40% ngân sách chi tiêu chỉ nội cho một việc là mua gạo. Ngoài châu Á, châu Phi ngày nay tiêu thụ gạo nhiều hơn trước và có tỷ lệ bần cùng còn cao hơn châu Á nên cũng bị ảnh hưởng rất nguy kịch. Trong những biến động đang dồn dập xảy ra, có lẽ khủng hoảng lương thực gần như là đồng nghĩa với khủng hoảng lúa gạo.

Hỏi: Nếu có thể nói thật ngắn gọn về nguyên nhân thì ông cho là vì sao thế giới lại bị khủng hoảng lương thực vào lúc này khi mà sản lượng ngũ cốc trên toàn cầu đang ở một mức cao kỷ lục như diễn đàn này đã trình bày trong một kỳ trước, là hai tỷ 130 triệu tấn"

- Thật khó mà nói tới một nguyên nhân chính, và tôi lại xin trở lại chuyện "nhân" và "duyên" mà mình thường đề cập tới trong chương trình này. Cái "nhân" ở đây là hoàn cảnh cung cầu đang căng thẳng vì số cầu rất cao. Cái "duyên" chính là nạn đầu cơ tích trữ trên phạm vi toàn cầu.  Chính quyền Việt Nam đang kết án những người gọi là đầu cơ tích trữ trong xã hội, nhưng thực tế thì chính Việt Nam - và nhiều quốc gia khác - cũng đang đầu cơ tích trữ gạo.

- Điều ấy cho thấy những bất toàn trong thị trường lúa gạo vì ta nên biết là tâm lý hốt hoảng hoặc phản ứng tích trữ dẫn tới nạn đầu cơ chỉ xảy ra khi thị trường không vận hành một cách bình hòa. Chính quyền Việt Nam cần nhìn ra trách nhiệm của mình trong vụ khủng hoảng đó, chứ nếu chỉ cho công an đi lùng bắt người đầu cơ hoặc cấm báo chí không được loan tin xấu về việc cung cấp lương thực thì cũng không giải quyết được vấn đề.

Hỏi: Nếu vậy, xin đề nghị là chúng ta sẽ lần lượt phân tích những nguyên nhân sâu xa của vấn đề, trước hết là về tình hình cung cầu, được biểu hiệu qua một chỉ dấu là giá cả. Sản lượng lúa gạo của thế giới đã lên xuống ra sao và vì sao giá gạo lại tăng vọt như vậy"

- Theo một cơ quan có thẩm quyền nhất là Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế, có tên tắt là IRRI với trụ sở đặt tại Manila của Philippines, thì sản lượng gạo trên thế giới đã gia tăng đều đặn từ 1960 đến nay, trừ ba năm bị sút giảm nhẹ là từ năm 1999 tới 2001. Giá gạo cũng giảm mạnh và tương đối liên tục kể từ năm 1974, tính theo thực giá của đô la ngày nay thì giảm từ khoảng 1.300 xuống dưới 300 đô la một tấn, cho tới 2001 mới bắt đầu tăng. Nhưng tăng mạnh nhất là kể từ năm 2007, rồi từ bốn tháng đầu năm nay thì đã trở thành phi mã. Nếu lấy giá gạo tiêu chuẩn trên thị trường là gạo Thái loại có 5% tấm, thì từ đầu năm ngoái đến tháng Tư năm nay đã gấp ba, từ 362 đô la đã lên một ngàn đô la một tấn.

- Nguyên nhân chính yếu và sâu xa của hiện tượng trường kỳ này là sau cuộc cách mạng về kỹ thuật nông nghiệp - mà người ta gọi là "Cách mạng Xanh" vào đầu thập niên 1960-1970 - khi sản lượng tăng và giá hạ, nhiều quốc gia Á châu đã rơi vào phản ứng chủ quan ỷ lại mà lãng quên hẳn khu vực canh nông. Chúng ta có đề cập tới vấn đề ấy trong chương trình phát thanh cách đây hai tuần, vào ngày 16 tháng Tư dưới tiêu đề "Nông sản lên giá - Nông gia tuột dốc" khi phân tích báo cáo mới nhất của Ủy ban Kinh tế Xã hội Á châu Thái bình dương ESCAP.

Hỏi: Như vậy, có phải là từ cái nhân là lãng quên nông nghiệp mà chúng ta đang gặp hậu quả ngày nay"

- Khi nói đến tình trạng cung cầu bấp bênh ngày nay, ta nhớ trước tiên là vế cung, là sản lượng và đà gia tăng năng xuất canh tác của các nước có sút kém dần vì ít đầu tư vào hạ tầng vận chuyển, vào công nghệ lúa gạo và bỏ rơi khu vực canh nông, hoặc lấy đất đai canh tác vào công dụng khác. Đấy là phần quan trọng nhất của vấn đề, các yếu tố khác như thiên tai, dịch bệnh hay giá cả nguyên nhiên vật liệu gia tăng, chỉ làm cho vấn đề trở thành trầm trọng hơn.

- Bước sang chuyện cầu và giá cả thì ta không quên rằng nhiều quốc gia đứng đầu thế giới về sản lượng thì thật ra cũng chỉ đủ "vặt mũi bỏ mồm", là trường hợp bốn nước trồng gạo nhiều nhất địa cầu mà tiêu thụ cũng nhiều nhất. Đó là Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Bangladesh. Quốc gia có sản lượng thứ năm là Việt Nam thì còn dư để xuất khẩu nhưng vẫn thua kém nước thứ sáu là Thái Lan, đứng đầu thế giới về xuất cảng gạo.

- Khi người ta ăn nhiều hơn mà sản xuất không tăng theo cùng nhịp độ thì mình có tình trạng cung cầu bấp bênh như hiện nay. Thế rồi những nước xuất khẩu mà quản lý kém về vĩ mô lại dùng lợi thế ấy để tích trữ và đầu cơ, là trường hợp Việt Nam, với kết quả bất công là nông gia hưởng lợi rất ít mà các đầu nậu thu mua và doanh nghiệp xuất khẩu lại có lời lớn. Trong khi ấy, dân nghèo lại rơi vào hoàn cảnh thiếu ăn trầm trọng nên động loạn mới dễ bùng nổ.

Hỏi: Ông có nghiêm khắc quá khi nói tới trường hợp của Việt Nam hay không"

- Thưa là không và điều mỉa mai là chuyện ấy lại xảy ra khi Việt Nam đang muốn ăn mừng biến cố 1975 vào cuối tháng Tư này! Khi đồng bằng Cửu Long vừa được mùa lúa gạo mà dân trong Nam lại hốt hoảng sợ thiếu ăn khiến Chính phủ và các ban ngành hay chính quyền địa phương phải mở chiến dịch trấn an thì ta thấy ra sự bất trắc và không đáng tin của thông tin và phân phối thị trường.

- Bây giờ, hãy tưởng tượng ra phản ứng của từng tỉnh là lui về chế độ "ngăn sông cấm chợ" thời trước để gạo của tỉnh nhà khỏi lọt qua nơi khác thì ta suy ra quy mô toàn cầu của vấn đề, khi các nước đều phải có phản ứng phòng ngừa như thế. Đây là một sự thất bại hiển nhiên của quản lý thị trường.

Hỏi: Chúng ta bước qua phần thứ hai của đề tài là làm sao giải quyết vấn đề này, vấn đề ông cho là do sản xuất kém và quản lý kém. Hãy nói về sản lượng trước, người ta có thể làm được những gì"

- Chúng ta sẽ phải nói đến biện pháp ngắn hạn và chiến lược trường kỳ. Nhưng, ngay trước mắt thì ai cũng có thể thấy rằng mình phải gia tăng sản lượng lúa gạo. Làm sao đạt mục tiêu ấy" Để tăng sản lượng, ai cũng có thể nghĩ đến mở rộng diện tích canh tác, đạt năng xuất cao hơn trên cùng một diện tích hoặc phải cùng lúc làm cả hai việc đó. Thực tế cho thấy những giới hạn quá lớn của việc mở rộng diện tích canh tác nên giải pháp chủ yếu và thiết thực là phải nâng cao năng xuất.

- Một cách cụ thể, và cần xúc tiến ngay trong một chiến lược có tầm vóc quốc gia, là xác định lại ưu tiên của nông nghiệp và đầu tư nhiều hơn vào việc nghiên cứu ra công nghệ mới và phổ biến kiến thức mới cho nông gia. Nói cho dễ hiểu là phát động một cuộc Cách mạng Xanh trên phạm vi toàn cầu và toàn quốc. Đó là về chiến lược trường kỳ mà các nước đều đang được nhắc nhở.

Hỏi: Về những biện pháp trước mắt thì các nước có thể làm được những gì"

- Tôi thiển nghĩ rằng ở gốc thì trong khi chờ đợi tìm ra giải pháp kỹ thuật cải thiện năng xuất, người ta cần giảm thiểu những thất thoát oan uổng trong quy trình từ sản xuất, xay xát, đến phân phối, tức là tồn trữ, bảo quản và vận chuyển. Việt Nam có thể tiết kiệm - nghĩa là gia tăng được - số thất thâu là từ 10 đến 15% sản lượng lúa gạo trồng trọt được và nâng cao được phẩm chất lúa gạo mình có. Chính quyền nên đi tiên phong trong việc đầu tư thiết thực ấy.

- Bước kế tiếp là nên bắt đầu giải phóng thị trường để nông gia ngày càng có cơ hội tiếp cận thẳng với nhà tiêu thụ thay vì phải mất tiền cho hệ thống trung gian, và cho doanh nghiệp thực tế đang được độc quyền xuất khẩu và làm giá.

- Tôi xin lấy một thí dụ dễ hiểu là nếu các doanh nghiệp phân phối hay bán lẻ hoặc hệ thống siêu thị của quốc tế mà được đầu tư vào thị trường Việt Nam, chính họ sẽ trực tiếp gặp gỡ nông gia, giải thích về yêu cầu hay thị hiếu của thị trường, đặt ra tiêu chuẩn chính xác cho nông gia biết rõ mà cung ứng vì điều ấy có lợi cho cả đôi bên. Khi được yểm trợ từ gốc mà lại có cơ hội tự do trao đổi ở ngọn thì nông gia sẽ có lợi và chính là thị trường sẽ cải thiện được những bất toàn hay ách tắc trong phân phối.

Hỏi: Câu hỏi sau cùng mà nhiều người rất quan tâm, thưa ông, liệu một trận đói có thể xảy ra tại Việt Nam hay không mà vì sao dân chúng lại hốt hoảng như vậy"

- Chúng ta không quên rằng hai chục năm trước, khi Việt Nam bắt đầu giải phóng nông nghiệp từ thời kỳ đổi mới và lần đầu tiên xuất khẩu gạo sau mấy chục năm chiến tranh, một số tỉnh đã bị đói. Ngày nay, có lẽ nạn đói sẽ khó đe dọa như thời ấy nhưng tâm lý hốt hoảng thì vẫn còn, là trường hợp xảy ra cho mọi xã hội trong hoàn cảnh bất trắc của thị trường.

- Tuy nhiên, dù không sợ bị chết đói, Việt Nam cũng cần chú ý đến tình trạng ngặt nghèo nhất của các thành phần cùng khốn mà chuẩn bị những biện pháp cung cấp và cấp cứu xã hội. Tất nhiên, đây không phải là sự tái lập của chế độ tem phiếu ngày xưa, và trong hoàn cảnh đó, người ta cũng không nên quên rằng nạn tham nhũng vẫn hoành hành và các phần tử thiếu lương thiện sẽ thừa cơ trục lợi.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.