Hôm nay,  

Thất Bại Của Bà Clinton

10/06/200800:00:00(Xem: 9679)
...Ông cũng chẳng bao giờ tự đánh bóng, dĩ nhiên vì chẳng có gì để đánh bóng...

Chiến thắng của thượng nghị sĩ Obama, trở thành ứng viên tổng thống của đảng Dân Chủ, đối diện với thượng nghị sĩ John McCain của Cộng Hòa là một bất ngờ cho tất cả mọi người, từ người dân bình thường như chúng ta, đến các chuyên gia chính trị Mỹ và các chính trị gia lãnh đạo hai chính đảng của Mỹ.

Chiến thắng này sẽ đi vào lịch sử như một biến cố quan trọng nhất nhì trong lịch sử chính trị Mỹ, cho dù ông Obama thua ông McCain trong kỳ tổng tuyển cử tháng Mười Một tới.

Thượng nghị sĩ Barack Hussein Obama là người da đen (thật ra là lai thôi) đầu tiên đắc cử đại diện cho một chính đảng ra tranh cử tổng thống. Nếu đắc cử, ông sẽ là tổng thống da đen đầu tiên của Hợp Chủng Quốc, và cũng sẽ là thượng nghị sĩ đầu tiên đắc cử tổng thống sau thượng nghị sĩ John Kennedy, cách đây gần năm mươi năm.

Trong lịch sử Mỹ, ít khi thượng nghị sĩ được đắc cử tổng thống, vì dân Mỹ muốn tổng thống là người có kinh nghiệm hành pháp, thông thường là thống đốc, như TT Bush (TĐ Texas), TT Clinton (TĐ Arkansas), TT Reagan (TĐ California), TT Carter (TĐ Georgia). Đáng ngạc nhiên hơn thế nữa, Obama là một chính trị gia trẻ, không có thành tích gì đáng kể, cũng chẳng có chương trình kế hoạch to lớn vĩ đại gì.

Hiện nay và trong tương lai, đã có và sẽ có hàng trăm, hàng ngàn sách vở, tài liệu phân tách sự kiện lịch sử này. Độc giả nào có cảm hứng xin hãy đón xem.

Cuộc chạy đua vào Tòa Bạch Cung bên phía Dân Chủ bắt đầu với gần một tá ứng viên, nhưng thực tế đã mau chóng biến thành một cuộc chạy đua giữa hai thượng nghị sĩ Hillary Clinton và Barack Obama.

Sự thành công của ông Obama do đó có thể giải thích qua 1) những cái “hay” của ông Obama, và 2) những cái “dở” của bà Hillary.

1) Cái “hay” của Obama

Thượng nghị sĩ Obama có hai đặc điểm nổi bật không ai chối cãi được.

Trước hết, ông có tài ăn nói trôi chảy ít người có. Ông nói thao thao không có một mảnh giấy nào trong tay trong cả tiếng đồng hồ. Nói đâu vào đấy, từng vấn đề một, đầy đủ không thiếu sót, một cách mạch lạc. Quan trọng hơn cái tài nói không ngừng là cái khả năng nói mà không làm người nghe ngủ gật. Trái lại, ông nói với lời lẽ hùng hồn, dễ hiểu, lạc quan, làm người ta chăm chú nghe, cảm thấy lạc quan theo, hứng khởi và phải gật gù đồng ý. Dĩ nhiên là đồng ý vì ông không bao giờ đi vào chi tiết kỹ thuật mà chỉ nói những nguyên tắc văn hoa bóng bẩy chung chung ai cũng dễ đồng ý. Ví dụ như nói các chính khách ở Washington tham nhũng, bất tài, cần phải thay đổi. Dĩ nhiên ai cũng đồng ý. Nhưng thay đổi như thế nào thì ông chưa nói tới vội. Hay ông nói về nhu cầu chấm dứt chiến tranh Iraq. Dĩ nhiên ai cũng muốn vậy, nhưng chấm dứt như thế nào để tránh đại họa tiếp theo thì ông không nói vội.

Bà Hillary (và sau này chắc ông McCain cũng vậy) lớn tiếng than phiền ông Obama chỉ là trống rỗng kêu to, giỏi đánh võ miệng, chứ không có chiều sâu, không có chương trình kế hoạch gì ghê gớm. Nhưng thực tế mà nói, nói chuyện với người dân bình thường như quý vị và kẻ viết bài này mà cứ mang chính sách ra nói thì thứ nhất không có thời giờ, thứ nhì chẳng ai hiểu, và thứ ba có hiểu thì sẽ có lý do để bắt bẻ chống đối. Dại gì.

Nguyên tắc tranh cử của Mỹ là phải giản dị hóa tối đa mọi vấn đề. Chỉ cần đài truyền hình cho lên vài câu trong vòng năm mười giây đồng hồ là đủ. Mỹ gọi đó là những “TV sound bites”.

Ông Obama nắm vững nguyên tắc này nên luôn luôn thủ sẵn những câu nói hay khẩu hiệu ngắn gọn, nổ như pháo Tết và dễ nhớ. Hiện nay, không ai không biết khẩu hiệu của Obama là “Yes, We Can” (tạm dịch là Vâng, Chúng Ta Có Thể), không cần biết chúng ta có thể… cái gì" Có ai nhớ khẩu hiệu của bà Hillary là gì không"

Đặc điểm thứ hai là ông nắm bắt được tâm lý quần chúng hiện nay.

Họ là những người bất mãn với tình trạng hiện tại, không đồng ý với cuộc chiến Iraq, đang vật lộn với đời sống kinh tế khó khăn, chán ngán cảnh hai chính đảng Cộng Hòa và Dân Chủ suốt ngày chửi nhau chí chóe mà chẳng bên nào giải quyết được chuyện gì. Họ bầu đa số Dân Chủ vào quốc hội năm 2006 để mong có thay đổi, nhưng rồi chỉ nhìn thấy tình trạng… vẫn như cũ. Bế tắc trong vấn đề Iraq, bế tắc trong việc cải tổ kinh tế, giáo dục, quỹ an sinh xã hội,… Tất cả chỉ vì hai chính đảng không thành tâm hợp tác với nhau để giải quyết vấn đề.

Ông Obama đưa ra ngay chiêu bài ông sẽ là người bắc nhịp cầu, chủ trương đường lối ôn hòa, hợp tác với phe Cộng Hòa và các khuynh hướng độc lập.

Dân Mỹ nghe như vậy là mãn nguyện rồi. Họ ùn ùn tin tưởng ngay lời hứa hẹn tốt đẹp này. Họ chẳng cần biết ông Obama trong thời gian gần ba năm làm thượng nghị sĩ đã chưa hề sang sông, bắt tay với phe Cộng Hòa để ra bất cứ điều luật nào. Chẳng những vậy, ông còn được chấm điểm là thượng nghị sĩ cấp tiến nhất (thiên tả nhất - most liberal), hơn cả các đại ca Ted Kennedy, John Kerry, và hơn cả bà Hillary.

Không ai đặt vấn đề với thành tích cấp tiến vô địch như vậy, làm sao ông Obama có thể hợp tác với các ông bảo thủ Cộng Hòa được. Đó là chưa nói tới tình trạng xào xáo gia cang trong nội bộ đảng Dân Chủ. Ông đánh nhau với bà đồng chí Hillary đến gần tan đảng, làm sao có thể làm việc chung với mấy ông bảo thủ quá khích Cộng Hòa được"

Đặc điểm thứ ba là ông đã dùng hình ảnh lạc quan đẹp đẽ của tương lai để thu hút cử tri. Không khác gì ông Ronald Reagan ngày xưa. Hình ảnh này đã lôi cuốn được cả ngàn thanh niên trí thức trẻ để họ lần đầu tiên trong đời tham gia vào sinh hoạt chính trị, trở thành những chiến sĩ tài ba sốt sắng nhất của đạo quân Obama.

Ngoài những đặc điểm này, ông Obama còn chứng tỏ một khả năng tổ chức đặc biệt, biết khai thác tối đa tổ chức và hệ thống bầu cử sơ bộ của đảng Dân Chủ, đồng thời biết cách xin tiền có hiệu quả chưa từng thấy, và lấy điểm với báo chí cấp tiến. Chúng ta sẽ bàn thêm trong phần dưới, liên quan đến chiến lược tranh cử của bà Hillary.

2) Cái “dở” của Hillary

Thượng nghị sĩ Hillary Clinton khởi đầu cuộc tranh cử như là… tổng thống tương lai của Mỹ. Tranh cử chỉ là chuyện thủ tục màu mè cho phải phép thôi. Ưu tư của bà lúc đó có lẽ là không biết mua màn cửa kiểu gì, màu nào cho tòa nhà bà sẽ tái ngộ vào năm tới.

Trong tư thế cựu đệ nhất phu nhân, bà có trong tay tất cả guồng máy tổ chức chính trị của đảng Dân Chủ. Hàng trăm, hàng ngàn viên chức Dân Chủ từ trung ương đến địa phương đều chịu ơn của chồng bà, cựu tổng thống Bill Clinton. Tất cả giới tài phiệt Dân Chủ đều sẵn sàng chi phiếu để yểm trợ bà. Các khối cử tri trung thành của Dân Chủ như khối dân da đen, giới lao động, phụ nữ, khối cấp tiến, các nhóm dân thiểu số da nâu, da vàng, xếp hàng chờ bỏ phiếu cho bà.

Mùa bầu sơ bộ vừa bắt đầu không lâu thì tất cả các địch thủ Dân Chủ của bà bị loại một cách mau lẹ. Chỉ có chuyện bật ngờ nhỏ là cái anh Obama vớ vẩn không biết ở đâu ra, vẫn còn đang chạy đua theo bà thôi.

Không biết số trời đã định thế nào mà chỉ vỏn vẹn bốn tháng sau khi mở màn, cuộc chạy đua hầu như kết thúc, với kết quả quái lạ là chính cái anh Obama vớ vẩn này chiến thắng, cho bà Hillary về New York làm thượng nghị sĩ tiếp tục.

Thất bại của bà Hillary, ngoài những cái “hay” của Obama đã được bàn ở trên, cũng như ngoài những chông gai mà kẻ viết này đã có dịp bàn trong một bài trước (xin xem bài "Lộ Trình Chông Gai" của TNS Hillary Clinton, Việt Báo số ngày 29-4-08), phải nói căn bản là do chiến lược và chiến thuật tranh cử tồi tệ của bà, từ đầu đến đuôi.

Bà đã đi từ sai lầm này đến sai lầm khác. Và đây là điều khó hiểu mà các chuyên gia chính trị sẽ phải nghiên cứu nhiều vì ông chồng bà, cựu tổng thống Bill Clinton trước đây đã được coi như là một thiên tài về chiến lược chính trị và nghệ thuật tranh cử, vì sao lại phạm nhiều sai lầm như vậy được.

Sai lầm quan trọng nhất là trong chiến lược tranh cử. Bà Hillary đã đánh giá sai tính quan trọng của các cuộc hội thảo bầu nhóm (caucuses) tại các tiểu bang nhỏ. Hình thức bầu bán này hoàn toàn lệ thuộc khả năng tổ chức hạ tầng cơ sở, tốn ít tiền quảng cáo trên truyền hình nhưng cần nhiều nhân sự để đi từng nhà vận động. Bà Hillary dự tính tập trung nỗ lực vào quảng cáo truyền hình tại những tiểu bang lớn, với suy tính là những tiểu bang lớn đó sẽ có ảnh hưởng lớn đến các cử tri các tiểu bang nhỏ. Kết quả, bà thắng tại một ít tiểu bang lớn nhưng vẫn thua to tại hàng loạt các cuộc bầu nhóm tại các tiểu bang nhỏ, là những nơi Obama đã tập trung nỗ lực.
Bà cũng đã quá tự tin, cho rằng chỉ cần thắng ở những tiểu bang lớn và bầu sớm nhất như California, New York, New Jersey, Florida, là các tiểu bang khác sẽ tự động lọt vào tay mình. Và như vậy, đến ngày Thứ Ba Hồng Thủy 5 tháng 2 là xong.

Bà tin chắc đến độ không có chuẩn bị nào về chương trình, kế hoạch, tiền bạc và nhân sự gì cho các cuộc đầu phiếu sau ngày Thứ Ba Hồng Thủy ấy. Ví dụ điển hình là tại tiểu bang lớn Texas sau ngày Thứ Ba này, bà chỉ hấp tấp mở văn phòng đại diện có một tuần trước ngày bầu cử sơ bộ. Kết quả bà thắng cuộc bầu sơ bộ tại Texas, nhưng thua cuộc bầu nhóm tại đây (Texas đặc biệt có bầu phổ thông sơ bộ đồng thời cũng có bầu nhóm luôn), đưa đến tình trạng tréo cẳng ngỗng là dù thắng với hơn một trăm ngàn phiếu cử tri, bà lại thua Obama về số đại biểu.

Rõ ràng bà đã thiếu chuẩn bị, không nắm vững thể thức bầu bán của Texas nói riêng và của đảng Dân Chủ nói chung, bằng Obama. Và đó là lý do quan trọng nhất bà đã thua Obama.

Một điểm nữa bà thua xa Obama là cách gây quỹ. Bà áp dụng phương pháp cổ điển, tổ chức tiệc tùng đình đám để “xin” tiền mấy đại công ty, mấy ông bà triệu phú, mỗi người cho được tối đa 2,300 đô, theo đúng luật. Obama gây quỹ bằng phương thức “hiện đại” hơn: qua internet, kêu gọi cả triệu người đóng góp, mỗi người chỉ cần cho mười hay hai chục hay ba chục là đủ.  Nhờ vào đạo quân trí thức vùng thung lũng silicon San Jose, Obama tận dụng các phương tiện thông tin, tuyên truyền, gây quỹ của internet như website, chatroom, YouTube, MySpace, FaceBook,… Kết quả, Obama thu và xài được hơn hai trăm năm chục triệu, trong khi bà Hillary thì phải ứng hơn chục triệu tiền túi mà vẫn mắc nợ trên hai chục triệu, mặc dù tần tiệm hơn Obama nhiều.

Sai lầm thứ hai là bà muốn câu phiếu của dân da trắng nên khơi mào chuyện da màu vào cuộc vận động, chuyện mà Obama cố tránh né từ đầu. Kết quả thấy được là bà xô đẩy tất cả cử tri da đen vào tay ứng viên da đen Obama trong khi vẫn không tóm thâu được cử tri da trắng. Có lẽ bà Hillary đã nhận định sai lầm về tình trạng kỳ thị da màu tại Mỹ. Dân da trắng phần lớn đã bớt kỳ thị nhưng dân da đen thì vẫn chưa quên được những bất công xã hội đối với họ.

Sai lầm thứ ba là bà cố nhấn mạnh vào kinh nghiệm chính trị của bà so với tờ giấy trắng Obama. Đây là chủ điểm quan trọng nhất của bà. Nhưng cái lý căn bản này lại không vững chút nào. Bà chỉ là vợ của tổng thống thôi, chứ chưa bao giờ làm tổng thống. Vợ của một bác sĩ mổ tim chắc chắn không có nghĩa là sẽ có khả năng mổ tim như chồng.

Còn kinh nghiệm của bà trong ngành lập pháp (8 năm thượng nghị sĩ liên bang) thì tính ra, ít năm hơn là kinh nghiệm của Obama (7 năm thượng nghị sĩ tiểu bang Illinois, và 3 năm thượng nghị sĩ liên bang).

Trong lúc làm thượng nghị sĩ liên bang, bà cũng như Obama thôi, chẳng đưa ra được một điều luật nào. Trong truyền thống lập pháp Mỹ, một vị dân cử -thượng nghị sĩ hay dân biểu- nếu đưa ra được một dự luật mà dự luật đó được chấp thuận trở thành luật, thì luật đó sẽ mang tên vị dân cử đó. Dĩ nhiên bà Hillary trong tư thế thượng nghị sĩ đã bỏ phiếu thuận hay chống cả trăm cả ngàn dự luật, nhưng cho đến nay, vẫn chưa có một điều luật nào mang tên bà cả.

Tóm lại kinh nghiệm của bà chẳng có gì hơn Obama cả. Hơn vậy, sau tám năm xì-căng-đan của Clinton, và bẩy năm thất bại của Bush, quảng cáo kinh nghiệm nghe không hấp dẫn bằng thông điệp “thay đổi” của Obama.

Sai lầm nữa của bà Hillary là tấn công Obama quá mạnh nhưng quá muộn, trong khi cố đánh bóng mình bằng mọi giá, kể cả phóng đại quá trớn. Chiến thuật này phơi bày ra hình ảnh của một chính trị gia cổ điển mà dân Mỹ quá chán ngán, khác xa với một Obama hoàn toàn mới lạ. Obama chẳng tấn công bà Hillary mặc dù có thể lôi ra cả chục vỤ xì-căng-đan của hai vợ chồng Clinton. Ông cũng chẳng bao giờ tự đánh bóng, dĩ nhiên vì chẳng có gì để đánh bóng. Chỉ có hứa hẹn và hẹn hứa.

Đất Mỹ nổi tiếng là vùng… đất hứa, nên không thiếu gì dân Mỹ tin tưởng vào những lời hứa.

Bà Hillary cũng bị thất thế trong vấn đề truyền thông. Mọi người đều thấy rõ giới truyền thông cấp tiến dường như bị Obama hớp hồn nên hồ hởi ca tụng Obama mệt vẫn không nghỉ. Điển hình ngay sau khi bà Hillary đại thắng tại Kentucky thì cả hai tuần báo Time và Newsweek đều tấn phong Obama lên làm lãnh tụ Dân Chủ, cho hình Obama lên bìa và viết bài nức nở ca ngợi, hoá giải ngay dư âm chiến thắng Kentucky của bà Hillary.

xxx

Nói về những cái “hay” của ông Obama và những cái “dở” của bà Hillary không có nghĩa là ông Obama không có gì dở, hay bà Hillary không có gì hay. Không có ai hoàn hảo. Chỉ là vấn đề đặt lên cán cân. Cho đến bây giờ, rõ ràng là những cái hay của Obama nặng ký hơn những cái hay của Hillary, trong khi những cái dở của Obama lại nhẹ ký hơn những cái dở của Hillary. Và kết quả thì thượng nghị sĩ Barack Obama đã thành công trở nên đại diện của Dân Chủ tranh cử tổng thống trong tháng Mười Một tới đây.

Nói tóm lại, bà Hillary thua vì chưa chi đã quá bận tâm lo đi kiếm mua màn cửa, trong khi ông Obama thành công chủ yếu là nhờ có biệt tài làm và bán… bánh vẽ. Điều chúng ta có thể cầu mong là nếu như ông đắc cử tổng thống thì những bánh vẽ đó sẽ trở thành bánh thật chứ ăn bánh vẽ thì chẳng khi nào no bụng được, có khi đau bụng nữa không chừng (8-6-08).

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.