Hôm nay,  

Chỗ Đứng Nào Của Ô. Võ Văn Kiệt Trong Lòng Dân Tộc?

18/06/200800:00:00(Xem: 12547)
Theo tin chính thức, ông Võ Văn Kiệt - một đảng viên cao cấp của đảng cộng sản Việt Nam,- nguyên thủ tướng thời kỳ “đổi mới” qua đời tại bệnh viện Mount Elizabeth ở Singapore hôm 11/6/2008 hưởng thọ 86 tuổi.

Ông Kiệt bị khó thở tại Saigòn và được đưa sang điều trị tại Singapore hôm 3/6/08.

Có nguồn tin cho biết ông qua đời mấy ngày sau đó, nhưng chính phủ Việt Nam và gia đình trì hoãn việc loan báo vì những lý do tế nhị thường có đối với các lãnh tụ cộng sản dù đang còn tại chức hay đã nghỉ hưu.

Ông Võ Văn Kiệt nằm xuống, dư luận trong và ngoài nước nói nhiều về ông vì chẳng những ông  được xem là người có công lớn trong công cuộc đổi mới, kịp kéo Việt Nam ra khỏi nạn đói của thời kỳ kinh tế bao cấp, mà còn là một người bình dân, cá tính mềm dẽo, và có một lối sống nhân bản. Chưa hết, ông còn là một người dù đã nghỉ hưu vẫn còn quan tâm đến các vấn đề của đất nước nhất là của đảng (cộng sản của ông), một người biết ngoảnh nhìn lại cuộc thắng bại của hai bên quốc cọng để biết cái vui và cái buồn của kẻ thắng người thua. 

Người Việt Nam có truyền thống không chê người vừa chết nên những đánh giá nóng hổi thường có khuynh hướng làm nổi bật cái tốt về con người và thành quả của người vừa khuất. Những điều bất cập tạm cho vào nắp hòm đậy lại.

Qua lời khen chê bình phẩm của những người từng biết ông cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt, nhất thời chúng ta không ngạc nhiên thấy ông Võ Văn Kiệt được hưởng sự rộng lượng hơn là búa rìu của dư luận.

Qua phỏng vấn của đài Á châu Tự do (Radio Free Asia – RFA), cựu đại tá Bùi Tín, một người không ân oán gì với ông Võ Văn Kiệt  nửa khen nửa chê, dùng dằng khó nói thật ý nghĩ của ông. Thính giả có cảm tưởng ông Bùi Tín cố kềm chế để không vượt ra ngoài văn hóa Việt Nam “không nói xấu người vừa chết”, nhưng cũng không thể không làm bày ra một số mặt tiêu cực của ông Võ Văn Kiệt một cách hết sức nhẹ nhàng qua các câu hỏi hiển nhiên của phóng viên Nguyễn An.

Ông Lê Hồng Hà (một cựu đảng viên cao cấp khác từng giữ chức vụ quan trọng trong bộ máy công an vào thập niên 1950, người can đảm bênh vực ông Hoàng Minh Chính khi ông Chính bị đảng trù dập năm 1995 và do đó bị trục xuất ra khỏi đảng, bị đưa ra tòa năm 1996 với bản án hai năm trong thời gian ông Võ Văn Kiệt làm thủ tướng) là người có ân oán với ông Võ Văn Kiệt, cũng vậy. Ông Lê Hồng Hà giữ tư cách của mình, tìm cách thông cảm với những động thái của ông Võ Văn Kiệt như [ông Kiệt] đã không bênh vực ông, và nhất là ký Nghị định 31-CP (tháng 4/1997) cho phép bắt và giam giữ những thành phần chống đảng không cần lệnh bắt và chứng cớ.

Ông Lê Hồng Hà cho rằng nội dung đàn áp của Nghị định 31-CP không do sáng kiến của ông Võ Văn Kiệt, ông Võ Văn Kiệt chỉ ký theo lệnh của Bộ chính trị mà ai ở vị trí của ông cũng phải làm. Ông Lê Hồng Hà muốn làm nổi bật cá tính làm việc năng nổ của ông Võ Văn Kiệt, và nhất là sau khi nghỉ hưu ông Võ Văn Kiệt vẫn còn quan tâm góp ý về những vấn đề của đất nước, những ý kiến [theo ông Lê Hồng Hà] chưa chắc những người đang cầm quyền muốn nghe. Trước khi phóng viên Việt Hùng của RFA có cơ hội hỏi thêm mà ông biết sẽ khó trả lời, ông Lê Hồng Hà chấm dứt cuộc phỏng vấn.

Nhà nghiên cứu chính trị hải ngoại, tiến sĩ Âu Dương Thệ ở Đức, trong một bài viết nhan đề “Cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt từ trần” cũng dành một cái nhìn tích cực về những gì ông Võ Văn Kiệt đã làm qua sự phân tích hai tài liệu quan trọng của ông Kiệt, thứ nhất là thư mật gởi Bộ chính trị năm 1995, thứ hai là cuộc phỏng vấn của đài BBC do phóng viên Xuân Hồng thực hiện mặt đối mặt tại Sài gòn năm 2007 nhân dịp kỹ niệm 32 năm ngày cộng sản chiếm miền Nam. Cũng theo truyền thống Việt Nam tiến sĩ Âu Dương Thệ không đưa ra những nhận xét tiêu cực đối với người vừa nằm xuống.

Đó là các ý kiến tiêu biểu. Còn các ý kiến của những nhân vật từng làm việc và được ơn mưa móc của ông thì hẵn nhiên hình ảnh của ông Võ Văn Kiệt là hình ảnh một lãnh tụ cộng sản xứng đáng “với dân với đảng”.

Bên cạnh những bày tỏ nhẹ nhàng của các nhân vật đương thời đối với một người vừa khuất, Bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam cũng đã quyết định cử hành quốc táng cho ông Võ Văn Kiệt. Và dù quyết định một cách miễn cưỡng (miễn cưỡng vì nghi lễ tương đối đơn giản, thời gian thăm viếng linh cửu rất ngắn, dân chúng không được tự do đến thăm linh cửu) đảng cộng sản Việt Nam cũng đạt được ý đồ khoe với thế giới rằng đảng viên của họ chỉ biết vì nước vì dân.  

Nhưng như vậy có công bình với dân tộc và với lịch sử Việt Nam không"

Câu hỏi cốt lõi cần đặt ra để đánh giá một nhân vật lịch sử là: Quá trình sống và đấu tranh của nhân vật đó đã mang lại gì cho dân tộc và đất nước" Và câu hỏi đối với ông Kiệt sẽ là: Cuộc đời “sống và chiến đấu” của ông Võ Văn Kiệt đã mang lại lợi ích cho dân tộc Việt Nam"

Không phải người cộng sản nào cũng xấu. Lịch sử chứng tỏ rằng chủ nghĩa cộng sản là một cỗ máy oan nghiệt đã giết chết ước mơ của bao nhiêu dân tộc. Nhưng cao trào và thoái trào của chủ nghĩa cộng sản trong từng nước cho chúng ta thấy có những người cộng sản dù đã rơi vào “cỗ máy” vẫn còn đủ sáng sốt và nghị lực vượt ra khỏi sự kiềm tỏa của bộ máy, biết gác bỏ danh lợi để phục vụ đất nước khi thấy cỗ máy có thể đưa bản thân mình lên đài danh vọng, nhưng đang từng ngày từng giờ nghiền nát đất nước và dân tộc mình.

Vài nhân vật điển hình. Mikhail Gorbachev là một người cộng sản tốt. Ông từ bỏ vinh quang và quyền hành của một Tổng bí thư (đảng cộng sản Liên bang Xô viết) để mang đến cho nước Nga một cơ hội dân chủ hóa đất nước và vươn lên đồng thời tránh cho thế giới một thế bí có thể dẫn tới chiến tranh toàn diệt bởi vũ khí nguyên tử. Boris Yeltsin cũng là một người cộng sản tốt ở một mức độ nhỏ hơn. Cựu ủy viên Bộ chính trị Trần Xuân Bách là một người cộng sản tốt khác đáng được vinh danh. Ông hy sinh vị trí ưu đãi của một ủy viên Bộ chính trị đưa ra chủ trương bỏ quyền cai trị độc tôn của đảng cộng sản, đa đảng hóa chế độ chính trị để dân chủ hóa đất nước. Và ở một mức độ nào đó, cựu thứ trưởng bộ ngoại giao Trần Quang Cơ là một người cộng sản có một tấm lòng. Ông Trần Quang Cơ có cơ hội trở thành bộ trưởng ngoại giao thay thế bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch [khi ông Thạch bị mất chức năm 1991 do áp lực của Trung quốc], nhưng ông đã từ chối vinh dự đó khi thấy rằng chính sách của đảng cộng sản [của ông] đang đưa đất nước vào con đường lệ thuộc Trung quốc. Ông xin nghỉ hưu và viết một tập “Hồi ức và suy nghĩ” để cảnh giác những người đang cầm quyền và hậu thế về nạn bành trướng của Trung quốc .

Ông Võ Văn Kiệt có ở trong số những người cộng sản tốt đó không"

Trên bình diện con người thì có, nhưng trên bình diện lịch sử thì không. Điểm son của ông Kiệt là lúc còn trẻ tuổi ông đã có khí tiết tham gia cuộc đấu tranh chống Pháp giành độc lập. Việc ông gia nhập đảng cộng sản cũng có thể xem như là một kết quả tất yếu của một người trẻ tuổi có nhiệt huyết lao mình vào cuộc đấu tranh cần trang bị vũ khí tư tưởng cho mình (bất cứ vũ khí tư tưởng nào có thể chụp bắt).

Về con người, qua ghi nhận của những người gần ông trong công tác cũng như ngoài đời thường, ông Võ Văn Kiệt là một người tốt. Ông hay giúp đỡ bạn bè, họ hàng bà con. Sau năm 1975 ở vị trí quyền lực ông đã giúp đỡ cựu đại tướng Dương Văn Minh trong việc cho ông đi Pháp, cũng như từng giúp đỡ những người trí thức đã “vì chưa hiểu cộng sản” đã chấp nhận sự lãnh đạo của họ mà ở lại. Ông thông cảm với những người trí thức vượt biên bị bắt và thường tìm cách giúp họ tránh cảnh tù tội.

Trên mặt đảng, ông chiến đấu lập công và leo dần lên những bậc thang quyền lực của đảng cộng sản, đóng góp tích cực vào cỗ máy độc tài đảng trị và chứng tỏ là một đảng viên trung kiên và trung thành với đường lối của đảng dù các biểu hiện cho thấy con đường của đảng cộng sản là con đường đưa đất nước đến chỗ suy vong. Khi làm thủ tướng ông không ngần ngại theo lệnh đảng ký Nghị định 31-CP cho phép bắt giữ những người đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền mà đảng cho là pha rối trị an để cứu chức thủ tướng của ông đang bị đe dọa. Ông đã cho công an bắt và hành hung ông Nguyễn Hộ, người cùng tướng Trần Văn Trà thành lập “Câu lạc bộ những người kháng chiến cũ”, một tổ chức gồm những cựu đảng viên gốc miền Nam đòi hỏi những cải cách cần thiết để giải quyết sự trì trệ đất nước.

Ông Nguyễn Hộ vốn là một bạn cùng tham gia cuộc chiến đấu chống Pháp và đều là những người tận tình phục vụ cho đảng cộng sản trong suốt hai cuộc chiến tranh chống Pháp (1946-1954) và xâm lăng miền Nam (1964-1975). Năm 1995 khi đang là Ủy viên Bộ chính trị kiêm thủ tướng chính phủ, ông Võ Văn Kiệt đã có một hành động được hiểu là tích cực khi viết một thư mật gởi Bộ chính trị kêu gọi duy trì đường lối cởi mở kinh tế và phê bình Bộ chính trị không nắm vững tình hình thế giới (khi Bộ chính trị đang bàn thảo về đường lối của đảng cho đại hội 8 năm sau). Nhưng nhiều người cho rằng bức thư này không phải vì nước vì dân mà chính yếu để bảo vệ vị trí là người cầm cương chính sách đổi mới kinh tế của ông.

Thái độ trung thành với đảng hơn hiếu với dân của ông Võ Văn Kiệt không khác gì với sự trung thành của các tướng lãnh Đức quốc xã gây ra trận Thế chiến 2 và theo lệnh của Hitler nhúng tay vào việc tàn sát 5 triệu người Do tháo ở Âu châu, hay tướng Tojo của Nhật Bản chỉ vì muốn Nhật Bản trở thành bá chủ Á châu mà phạm tội ác chiến tranh. Chỉ khác ở chỗ các tướng Đức như tướng Goering, Donitz, Keitel, … và tướng Tojo thất bại bị các tòa án đồng minh mang ra tòa và xử treo cổ (riêng tướng Goering tự sát trước khi bị treo cổ) thì đảng của ông Võ Văn Kiệt đã thắng.

Chiến thắng xong, ông Võ Văn Kiệt cùng với đảng ông nhắm mắt áp đặt một chế độ chính trị và một chính sách kinh tế phá sản lên đầu lên cổ của nhân dân Việt Nam. Sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ ông cùng đảng ông áp dụng chính sách “đổi mới” để cứu đảng và khi cơ hội làm giàu đến ông và các đồng chí của ông đều biến thành tư bản đỏ. Riêng ông Kiệt có gia tài hàng trăm triệu mỹ kim mà trước mắt là công ty taxi Mai Lĩnh có chi nhánh toàn quốc do gia đình ông quản lý.

Ông Võ Văn Kiệt may mắn giữ chức vụ quyền thủ tướng năm 1988 (hai năm sau khi đổi mới), và từ năm 1991 đến năm 1997 chính thức làm thủ tướng chính phủ là thời kỳ Việt Nam mở rộng cửa đón nhận đầu tư nước ngoài (theo chính sách của Bộ chính trị) và ông đã được tiếng là người đã biến cải nền kinh tế tập trung của Việt Nam sang kinh tế thị trường và giải quyết được nạn đói đang đe dọa Việt Nam khoảng bán thập niên 1980.

Sau khi nghỉ hưu ông Võ Văn Kiệt thỉnh thoảng lên tiếng đóng góp này nọ với Bộ chính trị với những tư tưởng rất tiến bộ, và điều này cũng góp phần không nhỏ vào cái tiếng “ông Võ Văn Kiệt là một người cộng sản tốt”.  Sự may mắn đã theo ông cho đến cuối cuộc đời. Ông đã chết an bình tại một bệnh viện vào hạng tối tân tại Singapore và đã được quốc táng .

Quốc táng là một quyết định hành chánh đưa ông Võ Văn Kiệt lên đài vinh quang. Nhưng trong lòng người Việt ông có đáng được quốc táng không" Nếu quốc táng là sự biết ơn của toàn dân với một người đã hy sinh cuộc đời mình cho dân tộc và đất nước chứ không dành riêng cho một người chỉ biết hy sinh cho đảng phái của mình (để qua đó phục vụ quyền lợi cá nhân mình) dù đảng phái của mình mang di hại cho đất nước thì ông Võ Văn Kiệt không xứng đáng được quốc táng.

Ông Võ Văn Kiệt là một người may mắn, cũng như những lãnh tụ cộng sản Việt Nam trước ông may mắn đã được quốc táng. Ông và họ được bia đá bảng vàng, nhưng dù dùng cả một bộ máy tuyên truyền, dùng quyền viết sử để bẻ cong lịch sử đảng của ông cũng không xóa được “bia miệng” của nhân dân và hậu thế "

Không nói gì đến Võ Văn Kiệt, ngay cả ông Hồ chí Minh (người du nhập chủ nghĩa cộng sản bất nhân vào Việt Nam), ông Lê Duẫn (người gom cả nước lại thành một mối điêu linh), và sau này Võ Nguyên Giáp (người danh tướng mà không phải là dũng tướng) nếu được đảng cộng sản Việt Nam đưa lên tột đỉnh của đài danh vọng một thời cũng sẽ không có chỗ đứng vững chãi trong lòng dân tộc.

Bia đá được dựng lên sẽ mòn theo thời gian, nhưng sự phán xét của nhân dân sẽ tồn tại mãi với thời gian.

Trăm năm bia đá cũng mòn,
Nghìn năm bia miệng hãy còn trơ trơ.

Trần Bình Nam
June 17, 2008

[email protected]
www.tranbinhnam.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.