Hôm nay,  

Nét Buồn Lung Linh

23/07/200800:00:00(Xem: 7787)
Một buổi chiều mùa hạ, sân chùa ẩm ướt sau cơn mưa rả rích từ lúc sáng tinh mơ. Chút ánh sáng yếu ớt còn lại của buổi chiều tà như bất lực khi cố xuyên qua những đám mây xám xịt. Trên đầu là một vòm trời u ám, buồn tênh. Mà hình như bầu trời đã buồn như thế từ cái ngày mà Đại Lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang, đệ tứ Tăng thống GHPGVNTN vừa viên tịch.

Bước vào bên trong lễ Phật và chào quý Thầy, con xuống hội trường, nơi tổ chức buổi lễ thắp nến tưởng niệm và thọ tang Ôn, do chùa Pháp Vân thừa lệnh của HĐĐH GHPGVNTNHN/Canada tổ chức. Phật tử đã tề tựu đông đủ đâu khoảng 200 và tất cả đã yên vị. Rộn ràng mà lặng lẽ. Đông đủ mà trang nghiêm. Trên khán đài là chiếc bàn thờ của Ôn. Những hoa, đèn và trầm hương như làm tôn vinh thêm nét hiền từ, thanh thoát nhưng cũng đầy vẻ uy nghiêm của di ảnh Người.

Con xin được phép gọi Hoà Thượng là Ôn, vừa tôn quý lại vừa bình dị, thân thương và gần gũi. Để con không có cái nhìn phân biệt e dè khi biết Ôn là một vị Tăng Thống  danh nghiêm. Để con không có cảm giác cách xa giữa hai thế hệ cách nhau hơn nửa thế kỷ. Để một ấu-phật-tử là con có đủ tự tin để viết về những cảm xúc của con dành cho Ôn, người mà con chưa một lần gặp mặt.

Người đi dấu vết chưa nhòa
Bát y truyền lại sương pha lạnh lùng
Tam sanh hẹn kiếp tao phùng
Tôn phong Tổ ấn gửi cùng non sông
(Pháp sự khoa nghi-Thích Huyền Quang)

Đúng 7 giờ tối, TT Nguyên Lạc mở đầu buổi lễ bằng những câu thơ ấy trong Pháp sự khoa Nghi mà Ôn đã viết trong khi bị quản thúc tại quê nhà. Để sau những áng văn hay và cảm động “Một vị cao tăng nhập niết bàn, tất không phải là điều bi lụy, bởi rằng Ngài là bậc đến có nơi, về có chốn, đến thế gian vì nguyện lực từ bi cứu tế, không vì nghiệp lực chuyển sinh.  Nhưng, bi thiết là cảm trạng của nhân sinh trong cõi vô thường, nhìn có không qua hình tướng sinh diệt.  Âu đó cũng là lẽ thường, lẽ thường trong cõi mộng!”.TT cung thỉnh chư tôn đức Tăng Ni quang lâm lễ đài. Chư Tôn Đức Tăng Ni đến từ nhiều chùa trong Giáo Hội thuộc miền Đông Canada: TT Bổn Đạt, TT Trí Thành, TT Viên Diệu, TT Tâm Hoà, TT Nguyên Lạc, TT Nhật Quán,  ĐĐ Tâm Đăng, ĐĐ Đạo Hạnh, ĐĐ. Nguyên Mãn, ĐĐ.Tâm Minh, Ni Sư Diệu Minh, Sư Cô Từ Diệu, Sư Cô Chân Huệ, Sư Cô Tịnh Quang, Ni Cô Diệu Thuần.

Tiếng trống bi hùng cùng tiếng nhạc Đăng Đàn Cung vang lên như nâng bước chân khoan thai từ tốn của quý tăng ni trong cánh áo vàng giải thoát đang dần tiến đến lễ đài, nơi có di ảnh thay cho kim quan của một bậc cao tăng. Hàng trăm búp sen tay trong tà áo lam, áo trắng nghiêng mình cung đón các trưởng tử Như Lai.
Nghi lễ chào cờ luôn là phần mở đầu cho cho một chương trình lễ nghi không chỉ của riêng Phật Giáo. Bài quốc ca Canada, bài VNCH, rồi bài Phật giáo kỳ lần lượt được mở lên. Lúc này cũng là lúc mọi người lắng tâm nghe tiếng thời gian trôi, để tam nghiệp là thân khẩu ý thanh tịnh. Phút mặc niệm tưởng nhớ công đức hóa độ của Ôn. Hội trường trang nghiêm chìm trong tĩnh lặng lắng nghe TT Tâm Hoà tuyên bố lý do của buổi lễ đêm nay: “Ôn đi đã hai tuần, vào ngày 5-7-2008 tại tu viện nguyên Thiều –Bình Định-VN. Lẽ ra, Chùa phải tổ chức buổi lễ tưởng niệm và thọ tang Ngài ngay trong thời gian ấy để biểu tỏ niềm tri ân đối với một bậc Hùng Sư- Đại Sĩ, một danh Tăng của Phật Giáo Việt Nam, một kẻ sĩ hiên ngang bất khuất trước cường quyền và bạo lực luôn tranh đấu và đòi hỏi những khát vọng chân chính của Dân Tộc. Nhưng vì Phật sự đa đoan và nhằm ngay vào khoảng thời gian an cư của chư tôn đức tăng ni trong Giáo Hội được tổ chức tại chùa Bát Nhã Calgary, theo truyền thống của đức Thế Tôn để lại, nên buổi lễ Thắp Nến, Tưởng Niệm và Thọ Tang Ngài phải dời lại cho đến hôm nay 20-07-2008. Tuy nhiên, trong mùa An Cư Kiết Hạ tại chùa Bát Nhã Calgary, khi nghe tin Ôn Viên Tịch, Giáo Hội cũng đã ra Thông Tư Khẩn cho các đơn vị Giáo Hội thuộc miền Tây Canada kịp thời tổ chức lễ Thọ tang cho chư Tôn Đức trong trường hạ và cho đồng bào Phật tử các giới.”

TT Viên Diệu thay mặt chư tôn đức tăng ni đọc tiểu sử và hành trạng cuộc đời của Ôn. Giọng đọc to rõ của TT làm sống lại cuộc đời Ôn. Trong số những phật tử đến tham dự chắc cũng có không ít người giống như con, chưa từng gặp Ôn, nhưng vì tiếng tăm đạo hạnh của Ôn như hương sen tỏa ngát khắp mười phương, khiến người người tôn kính mà về đây thọ tang Ôn đó. Cảm xúc thật nhiều nhưng con không đủ tư duy để viết về Ôn, không đủ kiến văn và tầm thấu hiểu về một đời 89 năm đạo hạnh vẹn toàn. Con chỉ là một phật tử sơ cơ, đến với Phật pháp để mong tìm cho mình chút gì thanh thản nơi tâm. Lời kinh chưa thuộc được dăm câu. Giáo lý thậm thâm vi diệu của đức Phật con chỉ biết sơ sài qua từng con chữ trên những trang kinh, mà lời Phật dạy là phải có nhiều nỗ lực, tinh tấn thực hành và chứng nghiệm nơi tự thân. Con chưa làm được điều đó. Vậy mà con lại ngồi đây viết về Ôn, viết về một đại lão Hoà Thượng đạo cao đức trọng, đức trí nhị nghiêm.

89 năm trụ thế, dài hay ngắn cho một đời người" Gần một thế kỷ, Ôn đã sống trọn vẹn với đạo, với đời, với dân tộc và với chính mình.

71 tuổi đạo, Ôn đã trao trọn thân tâm mình cho đạo pháp. Còn gì phải đắn đo khi xả bỏ báo thân giả tạm. Có đắn đo chăng cũng vì đại nguyện chưa thành khi chúng sanh còn lầm than đau khổ. Một lần đến rồi đi nhưngg có mấy ai để lại nỗi tiếc thương cho lần vĩnh biệt. Ôn ra đi, căn nhà trần gian thống khô này mất đi một ngưòi khách trọ. Nhưng đối với môn đồ pháp quyến là một nỗi mất mát lớn lao vì đã mất đi một người Thầy khả kính. Đối với giáo hội thì mất đi một nhà lãnh đạo tối cao, sáng suốt, luôn là tấm gương tranh đấu cho tự do tôn giáo và dân chủ nhân quyền. Còn đối với Phật Giáo VN, tăng ni như mất đi một bóng mát khi trời nắng hạn, mất đi một nơi nương tựa khi giông bão tràn về.

Những vị Thầy của con, có vị đầy đủ phước duyên được trực tiếp thọ giáo với Ôn, tiếp xúc với Ôn bằng ánh nhìn, bằng hơi thở. Có thầy gián tiếp noi theo tinh thần Bi-Trí-Dũng của Ôn mà hành đạo giữa đời. Và còn biết bao tăng ni khác cũng lần theo dấu chân Ôn đã để lại trên con đường chánh nghĩa, mà âm thầm lặng lẽ chịu biết bao những thị phi oan trái giữa biển đời nhiễu nhương. Gương bất khuất mà nhẫn nhục của Ôn soi rọi tận nơi sâu thẳm của biết bao con tim mộ đạo.

Và để tri ân công đức hoá độ của Ôn, Sau 3 lần TT Nguyên Lạc xướng lên “Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh tông tứ thập nhất thế, Nguyên Thiều Đường Thượng, Việt Nam Phật Giáo Thống Nhất Giáo Hội Đệ Tứ Tăng Thống thượng Huyền hạ Quang Đại Lão Hòa Thượng Giác Linh” là 3 lần chư tăng ni quỳ xuống cúi đầu bái lễ với tất cả lòng thành tôn kính và biết ân, trong khi 200 phật tử chấp tay cúi đầu như muốn dâng lên Ôn những búp sen quy ngưỡng. Đạo tình chính ở nơi đây, nơi mỗi cái cúi đầu kính ngưỡng ân đức mà phật tử chúng con đã tiếp nhận, dù trực tiếp hay gián tiếp.

Ánh đèn điện bỗng vụt tắt khi những ngọn nến nhỏ được chuyền tay nhau. Năm nam, năm nữ trong tà áo trắng tinh sóng bước trên lối đi từ phía hậu trường, tay trang nghiêm ngọn nến nhỏ nhoi, từng bước tiến về phía lễ đài. Một cảm giác ấm cúng dần lan tỏa khắp hội trường lung linh. Cùng lúc là những dải băng tang được trao nhau cài lên ngực áo. Lần đầu tiên con cài lên ngực một dải băng màu vàng. Mảnh băng tang đây ư" Mỏng manh, đơn giản và nhẹ nhàng, nhưng hàm chứa trong ấy là cả một cuộc đời đáng trân trọng của Ôn, là tất cả bản thể của mỗi người chỉ quy tụ ở  nơi Tâm. Âm hưởng của bản nhạc thọ tang vang rền theo tiếng trống tiếng kèn, nhưng không ồn ào mà gây cho mọi người con phật nơi đây những phút tiếc thương cảm động. Tâm thức ai nấy như chìm sâu vào những lời nguyện thật chân thành của TT Tâm Hoà. Quỳ trước di ảnh Ôn, TT đọc lời nguyện trong nỗi xúc động khôn cùng:

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Ngưỡng lạy chư lịch đại Tổ sư,
Ngưỡng bạch giác linh Đại lão Hòa thượng Đệ tứ Tăng Thống GHPGVNTN,

Sự ra đi của Hòa thượng là mất mát to lớn đối với toàn thể Phật giáo đồ Việt Nam trong nước và hải ngoại. Đau lòng về nỗi mất mát này, chúng con vân tập về đây để chia sẻ với nhau, cùng gánh một đại tang cho Phật giáo Việt Nam nói chung, và GHPGVNTN nói riêng. Cài băng tang lên ngực, chúng con muốn đánh dấu sự ra đi của bậc long tượng cao vời của rừng thiền Việt Nam, đồng thời cảm nhận nỗi đau này phải được hóa giải bằng ý niệm tri ân và báo đền ân đức của Hòa thượng đối với tiền đồ Phật giáo cũng như đối với hàng hậu học chúng con. Để thể hiện niềm tri ân và ý hướng báo đền đó, chúng con xin phủ phục trước linh đài của Hòa thượng, thành kính tiếp nhận ánh sáng từ di sản to lớn mà Hòa thượng để lại.

Ngưỡng bạch giác linh Hòa thượng,

Suốt 70 năm xuất gia hành đạo, Hòa thượng đã biểu hiện trọn vẹn bản nguyện cao đẹp của một sứ giả Như Lai, thắp sáng ngọn đèn Chánh Pháp, trên thì hướng vọng mục tiêu giải thoát tối hậu, dưới thì soi sáng những nẻo đường, những khúc quanh ngặt nghèo và những thân phận đen tối trên quê hương. Cuộc đời của Hòa thượng tỏa sáng sức mạnh kỳ vĩ của một bậc đại sĩ xuất trần, từ bi vô lượng, trí tuệ vô biên. Công hạnh và thân giáo của Hòa thượng chính là ánh sáng, là phẩm cách thanh khiết trang nghiêm của Tăng-già Việt Nam trong biển đời nhiễu nhương, biến động. Ánh sáng ấy sẽ bất diệt trong lòng chúng con, cũng như trong lịch sử của Phật giáo nước nhà.

Và để ánh sáng ấy mãi lưu truyền, từ nơi đạo tràng trang nghiêm này, chúng con xin được thành tâm thừa tiếp. Từ mỗi ngọn nến thắp lên, nguyện sẽ khơi dậy cả hùng tâm, trí giác và lòng bi mẫn vô hạn của Hòa thượng đối với trần gian thống khổ; lại nguyện cho những ngọn nến nhỏ này liên tục được thắp sáng để tiếp nối bản nguyện và hành trạng của Hòa thượng đối với Đạo pháp và Dân tộc:

- Đối với Tăng-đoàn, nguyện ý thức trách nhiệm củng cố nội lực tập thể, lấy thanh tịnh hòa hợp làm nền tảng cho sự thống nhất ý lực và hướng đi cao cả của Tăng già và Phật giáo Việt Nam;

- Đối với tự thân người xuất gia, nguyện chuyên cần tấn tu đạo nghiệp để làm nơi nương tựa vững chắc cho hàng phật tử tại gia;

- Đối với tự thân người phật tử tại gia, xin nguyện giữ vững tín tâm đối với Tam Bảo, phát bồ-đề nguyện, dứt bỏ điều ác, chăm làm việc thiện để góp phần làm đẹp cuộc đời, giảm thiểu khổ đau của nhân thế;

- Noi gương Hòa thượng, chúng con nguyện trải lòng từ bi đến với muôn người, muôn loài; không khởi niệm ác, không làm điều ác, không nói lời ác, dù là đối với những kẻ không đồng quan điểm, những kẻ hủy nhục và bức hại cá nhân mình hay tổ chức của mình; chỉ lấy tình thương làm chất liệu để cảm hóa con người và xã hội;

- Noi gương Hòa thượng, chúng con nguyện phát huy trí tuệ giác ngộ, phá chấp, giốc lòng tham cứu kinh tạng để thông suốt và khai mở những phương tiện thiện xảo ngõ hầu thiệp thế độ sanh mà không rời xa tự tánh thanh tịnh;

- Noi gương Hòa thượng, chúng con nguyện thi thiết hạnh vô úy đại hùng và đại nhẫn lực đối với con người và cuộc đời; giữ tâm vững mạnh và bất động như núi tảng, như đại địa để chuyển hóa tất cả nghiệp chướng, ma chướng nặng nề của thế gian thành đề-hồ và hoa thơm của đạo vàng giải thoát.

Nến này thắp lên rồi. Đây là tinh hoa, là bản nguyện của Hòa thượng và chư lịch đại Tổ sư, chúng con nguyện chí tâm phụng mạng, không để đoạn mất. Ánh lửa này, không chỉ tỏa nơi tim óc chúng con, mà chiếu rọi nơi tận cùng bản thể; qua đó, chúng con biết sự đến và đi của Hòa thượng nơi cuộc đời giả tạm này chỉ là sự thị hiện, và trên lý vô sanh, pháp thân Hòa thượng luôn thường trú để soi sáng con đường tu tập và hành đạo của chúng con nơi trần gian khổ lụy này.

Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh tông, Nguyên Thiều Đường Thượng, Việt Nam Phật Giáo Thống Nhất Giáo Hội Đệ Tứ Tăng Thống thượng Huyền hạ Quang Đại Lão Hòa Thượng Giác Linh từ bi chứng giám.

TT Bổn Đạt tiếp nối khoảng thời gian trầm lắng lúc này bằng bài điếu văn truy niệm kính dâng giác linh Ôn. Nhạc không còn, không gian như lắng đọng, để từng lời cảm động của TT như lung lay cùng ngọc nến trên tay.

Đứng ở dãy ghế gần cuối hội trường, con chỉ thấy được từ phía sau những tấm áo vàng đang kính cẩn quỳ trước di ảnh của bậc tôn sư, mà con cứ tưởng họ đang quỳ trước kim quan Ôn mà bùi ngùi hay nức nở. Cảnh tượng ấy, bóng dáng ấy sao mà cảm động quá! Người thầy, người cha đã đi về cõi Niết Bàn, trút hơi thở cuối cùng nơi quê nhà, mà đàn con muôn phương đang từ xa vọng bái. Đau lòng biết bao! Nhưng những người con ấy đã từng thừa hưởng tinh thần vô uý của Ôn nên biết chuyển hóa nỗi đau mất mát ấy thành những lời nguyện bi hùng của bậc đại sĩ, để tiếp nối đại nguyện mà một đời Ôn đã xây kiên cố trên báo thân hư huyễn của Ôn.

Trong bóng đêm huyền diệu, hàng trăm ngọn nến nhẹ lay theo nhịp thở dâng trào theo cảm xúc, con thoáng thấy trên những gương mặt cứ tưởng như lúc nào cũng an nhiên điềm tĩnh trước những buồn vui nơi trần thế, là những đôi mắt phảng phất một nét buồn, nét buồn lung linh.

Chuyển nỗi đau thành nguyện lực, trong mất mát là niềm tin. Với ý niệm đó, một rừng búp tay sen lại cung kính vươn lên trên ngực, tất cả đồng loạt cất lên tứ hoằng thệ nguyện trong niềm hi vọng kính tin vào đạo pháp:

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô biên thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành

Buổi lễ hoàn mãn bằng lời cảm tạ của TT Nguyên Lạc gửi đến quý tăng ni và đồng bào phật tử, đã nhín thời gian quý báu cũng như Phật sự tại địa phương mà hoan hỷ về đây cùng thọ nhận một đại tang chung. Cung tiễn chư tôn đức tăng ni hồi vị mà đạo tình ấm cúng vẫn còn đọng lại, vương vất trong suốt buổi tiệc trà bánh thân mật sau buổi lễ.

Bước ra về, bầu trời đã quang đãng hơn. Tuy mây trắng chưa kịp quay về sau chuyến cung thỉnh hộ giá Ôn về nơi đất Phật, nhưng con đã thấy những ánh hồng đang từ từ nhô ra khỏi đám mây u ám từ phía chân trời xa xa...

Về đến nhà, gỡ miếng băng tang vàng trên ngực xuống, dán trên tờ lịch của Phật A Di Đà, con mới nhận ra! Ồ! Thì ra Ôn chỉ đi an cư tận nơi Phật Quốc!

Canada, mùa an cư 2008.

Diệu Trang.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.