Hôm nay,  

Tại Sao Yukon?

25/08/200800:00:00(Xem: 8659)
1.-   CỘNG ĐỒNG, ĐẤT NƯỚC VÀ CHẾ ĐỘ

Từ  ngày 1 đến ngày 3 tháng 8 vừa qua, tại thành phố Whitehorse, thủ phủ của địa hạt Yukon, diễn ra lễ hội “Whitehorse Heritage Festival and Grand March”. (tạm dịch “Lễ hội Di sản và diễn hành Whitehorse”).  Trong cuộc diễn hành, các đoàn tham dự là cộng đồng các sắc dân sinh sống tại Yukon.  Lễ hội nầy là “Lễ hội di sản” (Heritage Festival) của các cộng đồng công dân Canada, chứ không phải là “Lễ hội quốc gia”, hay “Lễ hội Quốc tế”.  Nhân đây có ba khái niệm căn bản cần phải phân biệt.  Đó là cộng đồng, đất nước và chế độ trên đất nước đó.

Cộng đồng là tập hợp một nhóm người có một mẫu số chung như địa phương, sắc tộc, chính trị, hay tôn giáo… Ví dụ Cộng đồng người Hoa, Cộng đồng người Do thái… Đất nước hay quê hương là nơi xuất phát của cộng đồng sắc dân, hay tổ tiên của thành viên trong cộng đồng sắc dân.  Ví dụ Cộng đồng người Việt gồm những thành viên xuất phát từ nước Việt Nam, hay là con cháu của những thành viên đến từ Việt Nam.  Chế độ chính trị là tổ chức cai trị của một đất nước hay quốc gia.  Chế độ của mỗi đất nước có thể thay đổi theo những hoàn cảnh chính trị. Vì vậy, tuy xuất phát cùng một đất nước, hay cùng một sắc dân, nhưng theo những chế độ chính trị khác nhau nên có những cộng đồng khác nhau.  Ví dụ Cộng đồng Hồng Kông, cộng đồng Quảng Đông…

Những định nghĩa trên đây có thể còn thiếu sót, nhưng rất căn bản để nhìn vào vấn đề Cộng đồng người Việt trên đất nước Canada thanh bình nầy.

2.-   CĂN CƯỚC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT Ở CANADA 

Người Việt ở Canada trước năm 1975 rất ít.  Ít đến nỗi có thể đếm trên đầu ngón tay.  Trước  năm 1975, nước Việt Nam bị chia thành hai nước, theo hai thể chế chính trị khác nhau.  Bắc Việt là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH), theo chủ nghĩa cộng sản.  Nam Việt là Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) theo chế độ tự do dân chủ.  Được Cộng sản Quốc tế viện trợ, Bắc Việt chủ động xua quân tấn công Nam Việt từ  năm 1956, và chiếm toàn thể VNCH từ ngày 30-4-1975. 

Sau ngày 30-4-1975, do chính sách độc tài của chế độ cộng sản, nhiều người Việt ở miền Nam bỏ nước ra đi.  Nhân đó, có một số người miền Bắc cũng ra đi.  Tất cả người Nam hay người Bắc Việt đều ra đi vì lý do chính trị, mới được Cao uỷ Tỵ nạn Liên Hiệp quốc cho đi định cư.

Từ ngày 30-4-1975 cho đến cuối năm 1995, theo thống kê của Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc, số người Việt bỏ nước ra đi và đến được các nước tự do là 989,100, cả đường biển lẫn đường bộ.  Số người tử nạn trên đường vượt biên phỏng chừng từ 400,000 đến 500,000 người.  Nhiều nước trên thế giới đã bao dung, đón nhận thuyền nhân Việt Nam.  Trong số nầy, Canada là nước sớm trở thành quê hương thứ hai của những người tỵ nạn cộng sản Việt Nam.  Chính phủ Canada còn cho phép người tỵ nạn bảo lãnh gia đình đến định cư, nên người Việt càng ngày càng đông. 

Bỏ nước ra đi sau năm 1975 để tỵ nạn cộng sản chính là căn cước của Cộng đồng người Canada gốc Việt hiện nay ở Canada.  Sau năm 1975, phải là người tỵ nạn chính trị, chính phủ Canada mới chấp nhận cho vào định cư ở Canada.  Những người được bảo lãnh cũng bắt nguồn từ việc tỵ nạn chính trị của thân nhân của mình.  Chỉ có một số rất ít ra đi theo cách kết hôn.  

Theo thống kê, trên toàn quốc Canada ngày nay có khoảng 180,000 người Canada gốc Việt.  Cộng đồng Người Việt tỵ nạn cộng sản đã đóng góp không ít cho nhà nước Canada.  Ví dụ điển hình gần đây nhất là chiếc huy chương vàng đầu tiên của Canada tại Thế vận hội Bắc Kinh ngày Thứ Bảy 16-08-2008 là thành tích của Carol Huỳnh, một phụ nữ trong một gia đình ở Sài Gòn trước đây, đã vượt biên và định cư ở tỉnh bang British Columbia.

3.-   CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT VÀ CHẾ ĐỘ HIỆN NAY Ở VIỆT NAM 

Chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) ở trong nước hiện nay là hậu thân của chế độ VNDCCH, theo chủ nghĩa cộng sản.  Quốc hội Âu Châu, họp ngày 25-1-2006 tại Strasbourg ở đông bắc nước Pháp, đã đưa ra nghị quyết 1481 lên án chủ nghĩa cộng sản là tội ác chống nhân loại và vi phạm nhân quyền tập thể.  Chế độ CSVN ở trong nước hiện nay giống như các chế độ cộng sản khác, đã vi phạm nhân quyền một cách trầm trọng, mà ai cũng biết qua những vụ án lịch sử, như Các cuộc thủ tiêu chính trị năm 1945, Cuộc Cải cách ruộng đất (1955-1956), Nhân Văn Giai phẩm (1956), Tết Mậu Thân (1968), và gần đây, hình ảnh linh mục Nguyễn Văn Lý bị bịt miệng ở trước tòa án Huế ngày 30-3-2007, làm cho cả thế giới bàng hoàng.

Khi phải lìa bỏ quê hương ra đi, người Việt tỵ nạn cộng sản mang theo trong tâm trí mình hình ảnh quê hương, gia đình, bạn bè, trong đó đặc biệt là hình ảnh Lá Cờ vàng ba sọc đỏ, tượng trưng cho chế độ tự do dân chủ của Việt Nam trước khi đảng Cộng Sản chiếm quyền ở miền Bắc năm 1954 và trước khi Cộng sản chiếm quyền ở miền Nam năm 1975. 

4.-   TẠI SAO YUKON" 

Theo công pháp quốc tế, chế độ cộng sản CHXHCNVN hiện nay là đối tác chính thức của chính phủ Canada.  Không ai chối cãi điều nầy.  Tuy nhiên, CĐNCGV đang sinh sống, làm việc, thực hiện nghĩa vụ công dân, và đóng góp cho sự phát triển của Canada là một thực thể không thể phủ nhận được.  Các cấp chính quyền Canada cần phân biệt rõ ràng giữa Cộng đồng người Canada gốc Việt (CĐNCGV) với chế độ Cộng sản Việt Nam hiện nay trong nước là hai thực thể hoàn toàn khác nhau.  Đừng đồng hóa CĐNCGV tỵ nạn cộng sản ở Canada với chế độ cộng sản CHXHCNVN.

Trong khi chính phủ Canada bang giao, trao đổi mậu dịch với CHXHCNVN, thì CSVN đã lợi dụng cơ hội này để đưa cán bộ cộng sản vào Canada qua nhiều phương tiện khác nhau, nhằm tiếp tục tuyên truyền, rỉ tai, đe dọa những người Canada gốc Việt tỵ nạn cộng sản. Chính phủ Canada đã vì lợi ích của mình trong việc bang giao với CHXHCNVN, nhưng thủ tướng Stephen Harper đã từng tuyên bố tại Hà Nội năm vừa qua rằng Canada không đổi những giá trị nhân quyền để lấy dollar, thì chính phủ Canada cũng nên trực tiếp can thiệp, bảo đảm quyền lợi và sự an toàn cho CĐNCGV ngay tại Canada, để họ có điều kiện bảo tồn di sản của họ, mà trong đó Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là điều tối ưu tiên.  Nước Canada nổi tiếng là nước đa văn hóa.  Chính phủ Canada nổi tiếng tôn trọng nhân quyền.  Không có lý do gì chính phủ Canada từ chối việc thừa nhận di sản văn hóa của CĐNCGV.

Các cấp chính quyền Canada cần lưu ý rằng Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là biểu tượng văn hóa, tâm linh thiêng liêng của CĐNVGC.  Đối với CĐNCGV tỵ nạn cộng sản, Lá Cờ Đỏ Sao Vàng của chế độ CHXHCNVN không khác gì lá cờ của Đức Quốc Xã đối với các Cộng đồng Do Thái.  Người Do Thái kinh hoàng và căm ghét lá cờ Đức Quốc Xã như thế nào thì người Việt tỵ nạn cộng sản kinh hoàng và căm ghét lá cờ của chế độ cộng sản Việt Nam như thế đó.  Đó là lý do tại sao mà CĐNCGV cương quyết tranh đấu cho Lá Cờ Vàng tại Whitehorse Heritage Festival and Grand March ngày 02-08-2008.

(Toronto, 20-08-2008).

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.