Hôm nay,  

Chào Mừng 2009, Kỷ Niệm Sáu Mươi Năm Quốc Gia Việt Nam:

03/01/200900:00:00(Xem: 7420)
Chào Mừng 2009, Kỷ Niệm Sáu Mươi Năm Quốc Gia Việt Nam:
THỎA ƯỚC HẠ LONG (05-06-1948)
Trần Gia Phụng
1.-BIẾN CHUYỂN CHÍNH TRỊ
Trong khi chiến tranh tiếp diễn, Pháp nhận ra rằng phía Việt Nam không phải là một khối thống nhất mà chính sách của Việt Minh (VM) tiêu diệt những thành phần theo chủ nghĩa dân tộc, gây chia rẽ trầm trọng giữa những khuynh hướng chính trị Việt Nam.  Vì vậy Pháp tìm một giải pháp chính trị mới để giải quyết chiến tranh Đông Dương.
Tại Nam Kỳ:  Bác sĩ Lê Văn Hoạch từ chức thủ tướng chính phủ "Nam Kỳ tự trị" ngày 29-9-1947.  Hội đồng Nam Kỳ uỷ cho thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân, vừa từ Pháp về, lập chính phủ mới.  Nguyễn Văn Xuân đã từng được Hồ Chí Minh bổ nhiệm làm bộ trưởng không bộ nào (quốc vụ khanh) trong chính phủ ngày 2-9-1945, nhưng ông không nhận chức.  Nguyễn Văn Xuân không lập chính phủ "Nam Kỳ tự trị", mà công bố thành lập Chính phủ Lâm thời Nam Kỳ ngày 8-10-1947 như sau:
Thủ tướng:  Nguyễn Văn Xuân
Phó thủ tướng:  Trần Văn Hữu
Bộ trưởng Tư pháp:  Nguyễn Khắc Vệ
 -Công chánh:  Nguyễn Văn Tỵ
- Canh nông:  Trần Thiện Vàng
-  Thông tin:  Nguyễn Phú Khai
Thứ trưởng Thông tin:  Trần Văn Ân (Chính Đạo, tr. 66)
Tại Pháp:  Chính phủ Paul Ramadier của đảng Xã Hội bị lật đổ ngày 19-11-1947.  Ngày 24-11, quốc hội Pháp bầu Robert Schuman, thuộc đảng M.R.P. (Mouvement Républicain Populaire= Phong trào Cộng hòa Nhân dân) trung hữu và thân De Gaulle, lên lập chính phủ.  Trong nội các nầy, viên bộ trưởng Hải ngoại (tức bộ Thuộc địa cũ) cũng là một nhân vật của M.R.P., ông Paul Coste-Floret.  Với chính phủ mới, mọi người trông đợi một chính sách mới của Pháp về Việt Nam.
Cựu hoàng Bảo Đại gặp Bollaert:  Vào cuối năm 1947, theo lời mời của Cao Uỷ Đông Dương là Émile Bollaert, cựu hoàng Bảo Đại cùng hoàng thân Vĩnh Cẩn (ông Hoàng Tùng Đệ) từ Hồng Kông đến gặp Bollaert ngày 6-12-1947 trên chiến hạm Duguay Trouin, thả neo trong vịnh Bắc Việt.  Hai bên gặp nhau tại đây để tránh tai mắt của báo chí. 
Trong lần gặp mặt sơ khởi nầy, sau hai ngày thảo luận, cựu hoàng Bảo Đại chỉ chấp nhận ký vào bản thông cáo chung, theo đó nước Pháp hứa sẽ công nhận Việt Nam độc lập sau những cuộc thương thuyết chánh thức giữa hai bên.  Sau đây là nội dung thông cáo chung ngày 6-12-1947, được dịch sang tiếng Việt:
 "Một bên là Hoàng đế Bảo Đại, đại diện nước Việt Nam.
Một bên là Cao ủy Bollaert, đại diện Chính phủ Pháp tại Đông  Dương.
Đã thỏa thuận như sau:
Nước Pháp sẽ nhận cho Việt Nam độc lập sau những cuộc thương thuyết chánh thức giữa hai bên.
Việt Nam hứa sẽ ưu tiên dùng những chuyên viên Pháp trong công cuộc kiến thiết.
Một hiệp ước chính thức sẽ được thương thuyết và ký kết giữa các đại  biểu hai nước."
Cao ủy Pháp tại Đông  Dương   Hoàng đế Bảo Đại.
Ký tên : Bollaert, đóng dấu. 
Ký tên : Vĩnh Thụy (1)
Ngoài thông cáo chung, cựu hoàng không chịu ký vào tài liệu thứ hai ấn định lịch trình và những vấn đề sẽ bàn đến, vì ông tự cho rằng lúc đó ông chẳng đại diện cho ai cả và cũng chưa ai uỷ nhiệm ông thực hiện việc nầy.  Tuy nhiên do yêu cầu của Bollaert rằng đây chỉ la bản ghi nhớ nội dung, Bảo Đại chỉ ký tắt mà thôi. (Bảo Đại, tt. 295-297.)
Theo một tài liệu khác, những điểm căn bản trong cuộc thảo luận nầy như sau:  Pháp sẽ công bố rõ ràng rằng sẽ không tiếp tục thương thuyết với Hồ Chí Minh.  Bảo Đại đồng ý đứng ra thành lập một chính phủ độc lập, gồm cả ba miền Bắc, Trung, Nam trong Liên Hiệp Pháp; Pháp sẽ đặc trách về ngoại giao nhưng sẽ sử dụng viên chức Việt Nam.  Việt Nam sẽ có quân đội riêng, nhưng quân đội nầy sẽ tham gia bảo vệ toàn khối Liên Hiệp Pháp.  Pháp Việt sẽ thiết lập nền thuế quan chung, truyền thông, và vận tải. (Chính Đạo, tr. 70.)
 Khi Bollaert về Paris trình bày giải pháp Bảo Đại, chính phủ Pháp ra tuyên bố ngày 23-12-1947 rằng cao uỷ Bollaert được toàn quyền thương thuyết để tái lập hòa bình ở Đông Dương, và dứt khoát không nói chuyện với Hồ Chí Minh. (Chính Đạo, tt. 71-72) 
Về phía Bảo Đại, cựu hoàng mời ông Nguyễn Văn Xuân, thủ tướng chính phủ Lâm thời Nam Kỳ, ông Trần Văn Lý, chủ tịch Hội Đồng An Dân Huế, và ông Ngô Đình Diệm cùng nhau hội họp trong ba ngày tại Hồng Kông bắt đầu từ 19-12-1947.  Sau khi lấy ý kiến chung, cựu hoàng Bảo Đại lên đường ngày 24-12-1947 qua Genève thương thuyết. (Bảo Đại, tt. 297-299.)
2.-   CỰU HOÀNG BẢO ĐẠI VẬN ĐỘNG
Từ Hồng Kông, ngày 24-12-1947, cựu hoàng Bảo Đại đến Genève để gặp cao ủy Bollaert từ ngày 7-1 đến 12-1-1948.  Cựu hoàng đòi hỏi phải chính danh, xác định rõ vị trí của ông thì mới có thể thương thuyết. 
Bollaert cho rằng Bảo Đại không còn là hoàng đế Việt Nam, nhưng Bollaert sẽ mở một hội nghị gồm đại biểu ba kỳ, và hội nghị nầy sẽ trao quyền cho cựu hoàng sứ mạng điều đình với Pháp.  Năm lần họp liên tiếp không đem lại kết quả nào ngoài lời kêu gọi của Bollaert yêu cầu gặp lại cựu hoàng tại vịnh Hạ Long vào giữa tháng 2 sắp đến, nhưng cựu hoàng Bảo Đại không chấp nhận. (Bảo Đại, tt. 299-303.) 
Sau cuộc họp tại Genève, cựu hoàng Bảo Đại đến Cannes, miền nam nước Pháp, thăm gia đình.  Thủ tướng Pháp, ông Schuman mời cưụ hoàng đến Paris ngày 5-2-1948.  Trong buổi tiệc do Schuman khoản đãi, trả lời những thắc mắc của thủ tướng Pháp về thái độ của mình, cựu hoàng Bảo Đại tuyên bố rằng khi ông tới Hạ Long gặp Bollaert lần vừa qua, là để nghe trình bày về chủ trương của nước Pháp, chứ ông không có tư cách đại diện cho ai để ký kết điều gì.  Nhân buổi tiệc đó, cựu hoàng đòi hỏi Pháp phải thừa nhận nền độc lập và sự thống nhất của Việt Nam mới có thể vãn hồi hòa bình. (Chính Đạo, tr. 77.  Bảo Đại, tt. 304-308.)
Về lại Hồng Kông vào giữa tháng 3-1948, cựu hoàng Bảo Đại tiếp tục gặp gỡ thêm nhiều chính khách trong nước.  Vào ngày 26-3, cựu hoàng thông báo cho các đoàn thể chính trị, đồng ý thành lập một chính phủ Trung ương Lâm thời để thảo luận với Pháp một tạm ước và thống nhất đất nước.

Ngày 30-4, cựu hoàng gặp Nguyễn Văn Xuân và gởi thông điệp cho tất cả các tổ chức chính trị ngày 15-5 chấp thuận giao cho ông Xuân lập chính phủ lâm thời.  Nguyễn Văn Xuân là thiếu tướng trong quân đội Pháp, và từng là bộ trưởng không bộ nào (quốc vụ khanh) của chính phủ Hồ Chí Minh ngày 2-9-1945.                        
3.   CHÍNH PHỦ TRUNG ƯƠNG LÂM THỜI QUỐC GIA VIỆT NAM
Từ 20-5-1948, đại diện các giới cầm quyền Việt Nam tại ba miền trong vùng Pháp kiểm soát, đại diện các đảng phái, các đoàn thể chính trị, tham dự hội nghị từ ngày 20-5-1948 tại Sài Gòn, đã bầu thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng chính phủ trung ương lâm thời.  Ngày 1-6-1948, với sự đồng ý của cựu hoàng Bảo Đại, Nguyễn Văn Xuân chính thức công bố danh sách Hội đồng chính phủ Trung ương Lâm thời, thành phần như sau:
Chủ tịch Hội đồng, kiêm tổng trưởng Quốc phòng  : 
Nguyễn Văn Xuân
Quốc vụ khanh, Phó chủ tịch, tổng trấn Nam Việt:  Trần Văn Hữu
Quốc vụ khanh, tổng trấn Trung Việ:  Phan Văn Giáo
Quốc vụ khanh, tổng trần Bắc Việt:  Nghiêm Xuân Thiện
Quốc vụ khanh, tùng Bộ Quốc phòng:  Trần Quang Vinh
Tổng trưởng Lễ nghi, Quốc gia Giáo dục:  Nguyễn Khoa Toàn
Tổng trưởng Nội vụ: Nguyễn Hữu Trí (không nhận)
Tổng trưởng Tư pháp:  Nguyễn Khắc Vệ
Tổng trưởng Tài chánh Kinh tế Quốc gia:  Nguyễn Trung Vinh
Tổng trưởng Công chánh và Kế hoạch:  Nguyễn Văn Tỵ
Tổng trưởng Thông tin, Báo chí và Tuyên truyền:   Phan Huy Đán
Tổng trưởng Canh nông:  Trần Thiện Vàng
Thứ trưởng tùng Dinh chủ tịch:   Đinh Xuân Quảng
Thứ trưởng tùng Bộ Quốc gia Giáo dục:   Hà Xuân Tế
Thứ trưởng Nội vụ (bổ nhiệm 9-6):   Đỗ Quang Giai
Thứ trưởng Lao Động (bổ nhiệm 9-6):   Ngô Quốc Còn
Thứ trưởng Nội an (bổ nhiệm 28-6):   Lê Công Bộ (2)
Vì Nguyễn Hữu Trí không nhận bộ Nội vụ nên Nguyễn Văn Xuân kiêm nhiệm.  Sau đó Nguyễn Hữu Trí được cử làm Đại diện Việt Nam tại Paris ngày 25-9-1948.  Các cơ chế hạ tầng của chính phủ Nguyễn Văn Xuân được hoàn thiện dần dần tiếp theo về sau. 
Hôm sau, 2-6-1948, thủ tướng Nguyễn Văn Xuân ban hành "Pháp quy lâm thời" (Statut provisoire) của nước Việt Nam, theo đó quốc kỳ nền vàng, ba sọc đỏ ở giữa,(3) quốc ca là bài "Tiếng gọi sinh viên", sau đổi thành "Tiếng gọi thanh niên" của Lưu Hữu Phước, nước Việt Nam được chia thành ba phần Bắc Việt, Trung Việt và Nam Việt; mỗi phần do một tổng trấn đứng đầu.
4.-THỎA ƯỚC HẠ LONG (5-6-1948)
Theo lời đề nghị của cao uỷ Émile Bollaert, thủ tướng Nguyễn Văn Xuân cùng đại diện ba miền là Nghiêm Xuân Thiện, Đặng Hữu Chí (Bắc Việt), Phan Văn Giáo, Nguyễn Khoa Toàn, Đinh Xuân Quảng, (Trung Việt), và Trần Văn Hữu, Lê Văn Hoạch (Nam Việt) đến vịnh Hạ Long hội họp. 
Dưới sự chứng kiến của cựu hoàng Bảo Đại, hai bên Việt-Pháp ký thỏa ước Hạ Long, dưới hình thức một bản "Tuyên bố chung" ngày 5-6-1948 trên chiến hạm Duguay-Trouin, thả neo trong vịnh Hạ Long, nguyên văn bản dịch như dưới đây:
Trước mặt Hoàng đế Bảo Đại,
Ông Émile Bollaert, Cố vấn Chính phủ Cộng hòa Pháp quốc, Cao uỷ Pháp ở Đông Dương, nhân danh Chính phủ Cộng hòa Pháp quốc, một bên,
và:
Ông Nguyễn Văn Xuân, Thủ tướng Chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam, có sự dự kiến của quý ông Nghiêm Xuân Thiện và Đặng Hữu Chí, Phan Văn Giáo, Nguyễn Khoa Toàn và Đinh Xuân Quảng, Trần Văn Hữu và Lê Văn Hoạch, đại diện lần lượt cho miền Bắc Việt Nam, miền Trung Việt Nam và miền Nam Việt Nam, một bên, đã lập bản tuyên bố chung như sau:
1.   Nước Pháp long trọng công  nhận nền độc lập của Việt Nam, được tự do thực hiện nền thống nhất của mình.  Về phía Việt Nam, nước Việt Nam tuyên bố sự sáp nhập vào Liên Hiệp Pháp dưới danh nghĩa một quốc gia liên kết với nước Pháp.  Nền độc lập của Việt Nam không có một giới hạn nào khác, ngoài giới hạn, mà Liên Hiệp Pháp dành cho mình.
2.   Nước Việt Nam cam kết tôn trọng mọi quyền hạn và  quyền lợi của các tư nhân Pháp, cam kết bảo đảm các căn bản dân chủ, và dành ưu tiên sử dụng các nhà chuyên môn, cố vấn Pháp trong mọi nhu cầu tổ chức nội bộ và khuếch trương kinh tế của mình.
3.   Sau khi thành lập Chính phủ Lâm thời, các đại diện của Việt Nam sẽ thỏa thuận với các đại diện của Cộng Hòa Pháp quốc, những sự thỏa thuận hợp lý về các vấn đề  ngoại giao,  kinh tế, tài chánh và chuyên môn.
Làm thành hai bản chính ở vịnh Hạ Long, ngày năm tháng sáu năm một nghìn chín trăm bốn mươi tám. (Bảo Đại, tt. 317-318.)
Sau thỏa ước Hạ Long, cựu hoàng Bảo Đại qua Bangkok (Vọng Các, thủ đô Thái Lan) rồi đi Pháp.  Đương nhiên Hồ Chí Minh phản ứng ngay.  Ngày 7-6-1948, tại Thái Nguyên, Hồ Chí Minh tuyên bố phản đối "bọn bù nhìn" ký kết hiệp ước với bất cứ nước ngoài nào.(4)
Ngược lại, việc ký kết thỏa ước Hạ Long đem lại nhiều thuận lợi cho chính phủ Trung ương Lâm thời do Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng và cả Pháp nữa, trong đó quan trọng nhất là vụ Lê Văn Viễn về quy thuận.
Lê Văn Viễn, thường được gọi là Bảy Viễn,  một nhân vật lúc trẻ xuất thân từ giới "hảo hán giang hồ" ở Nam Kỳ, đã lên đường kháng chiến chống Pháp năm 1946, chỉ huy chi đội 7 là chi đội Bình Xuyên, đóng ở Rừng Sát.  Lúc đó, VM mời Bảy Viễn về Đồng Tháp Mười phong chức Khu trưởng khu 7.  Bảy Viễn dự đoán có thể đây là một kế hoạch giải tán Bình Xuyên, và bắt giữ ông, nên Bảy Viễn đem lực lượng Bình Xuyên về thành phố, quy thuận chính phủ Trung ương Lâm thời, và được phong làm đại tá tạm thời kể từ ngày 1-8-1948. (Đoàn Thêm, tr. 48.) (Còn tiếp)
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 01-01-2009)
CHÚ THÍCH
1. Nguyễn Khắc Ngữ, Bảo Đại, các đảng phái Quốc gia, và sự thành lập chính quyền Quốc gia, Tủ sách Nghiên cứu Sử Địa, Montréal, 1991, tt. 21-22.
2. Đoàn Thêm, Hai mươi năm qua, 1945-1964, Sài Gòn: 1965, California: Nxb Xuân Thu tái bản, không đề năm, sđd. tt. 44-45. (Viết tắt: Đoàn Thêm, tr.)
3. Cờ hình chữ nhật, chiều ngang bằng 2/3 chiều dài, nền vàng giống như cờ của Trần Trọng Kim, nhưng thay vì quẻ ly, nay đổi lại ba sọc đỏ bằng nhau chạy dài theo chiều ngang của lá cờ.  Ba sọc nầy tượng trưng cho sự thống nhất ba miền lãnh thổ Bắc, Trung, và Nam phần của đất nước, trên nền vàng tượng trưng căn bản của quốc gia.
4. Hồ Chí Minh toàn tập [tập] 5, 1947-1949, xuất bản lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc Gia, 2000, tr. 907.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm Thứ Sáu 26/9, Tổng Biên Tập JEFFREY GOLDBERG của tạp chí The Atlantic gửi ra tuyên bố phản đối lệnh của Ngũ Giác Đài về việc áp đặt, kiểm duyệt báo chí. Tuyên bố ghi rõ: “Về cơ bản, The Atlantic phản đối những hạn chế mà Ngũ Giác Đài đang cố gắng áp đặt đối với các nhà báo đưa tin về vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Những yêu cầu này vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của chúng ta, và quyền của người Mỹ muốn biết hình thức khai triển nguồn lực và nhân sự vốn do tiền thuế của người dân tài trợ. Những quy định này cũng phá vỡ các thông lệ lâu đời - dưới thời tổng thống của cả hai đảng, trong suốt thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng quốc gia - vốn cho phép các phóng viên Ngũ Giác Đài thực hiện công việc của mình mà không bị can thiệp chính trị.” The Atlantic đăng tuyên bố này trên trang mạng xã hội chính thức của tạp chí.
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.