Hôm nay,  

Chiều Winnipeg

11/04/200900:00:00(Xem: 9362)
CHIỀU WINNIPEG
Trần Chí Phúc
(Để nhớ Nguyễn Thành- người bạn Winnipeg.)
Tôi đến Winnipeg vào một ngày thượng tuần tháng 4 năm 1979. Sau khi được lên máy bay cùng mấy chục thuyền nhân từ trại tị nạn chuyển tiếp ở Kula Lumpur Mã Lai đến Toronto vào nữa đêm, ngủ một đêm khách sạn và trưa hôm sau, những thuyền nhân chia nhau nhiều nhánh đi về những thành phố khác nhau và chỉ một mình tôi được đưa về thành phố Winnipeg.
Một anh sinh viên du học thời trước 1975, trong nhóm người thiện nguyện giúp đỡ người tị nạn, tiễn tôi tận cửa máy bay. Cả hai cùng vẫy tay chào giã biệt, cảm giác bùi ngùi. Một thóang bơ vơ trong lòng vì lần đầu tiên kể khi vượt biển ra xứ lạ, đây là lần đầu mình ngồi trên chiếc phi cơ giữa bao nhiêu hành khác ngọai quốc bay trên bầu trời Canada.
Nhìn qua cửa kính, những đám mây trắng như bông lơ lững, những dải đất phủ đầy tuyết trắng mênh mông bên dưới, lần đầu tiên trong đời nhìn thấy tuyết.
Máy bay đến Winnipeg, một bà già bản xứ cầm cái bảng ghi tên tôi đứng đón và bà lái xe đưa về một khách sạn để tạm trú, bây giờ nhớ lại tên là Balmoral. Chúng tôi không nói với nhau lời nào vì tiếng Anh mình chẳng biết. Trời tháng tư nhưng Winnipeg vẫn còn lạnh, tuyết rơi lất phất. Và cũng là lần đầu trong đời sờ chạm tới tuyết. Cảm giác háo hức đặt chân xứ người ngọai quốc xen lẫn cái buồn ảm đạm của bầu trời u ám lạnh lẽo tuyết bay.
Ngày hôm sau, một cô sinh viên Tàu du học nằm trong nhóm nhà thờ thiện nguyện chở tôi đi mua đôi giày chống lạnh và chiếc áo khóac mùa đông. Sau đó có mấy người Việt Nam ở tại đây trước tới thăm hỏi, đa số là những người đi từ tháng tư bảy lăm, có mấy anh từng là phi công VNCH vì chán Mỹ bỏ rơi miền Nam nên chọn định cư tại Canada thay vì Hoa Kỳ.
Ở tại khách sạn Balmoral mấy ngày thì nhân viên của Sở Nhân Lực ( Man Power) cử người đến dẫn đi làm giấy tờ và mướn nhà. Tôi chọn một căn phòng nhỏ trong một chung cư đường Kennedy, có cái bếp nhỏ bằng điện và tủ lạnh. Anh Nguyễn Thành, một phi công VNCH đến làm quen và giúp đỡ mọi thứ từ thông dịch tiếng Anh cùng những chuyện cần thiết trong đời sống trong những ngày đầu bơ vơ xứ lạ.
Đến Winnipeg được khỏang mười ngày thì Sở Nhân Lực tìm việc làm cho tôi, trong hãng may áo khóac mùa đông. Người ta nhồi lông ngỗng, lông vịt vào bên trong chiếc áo và tôi dùng cái cây đập áo để lông nằm đều trong áo. Tôi đập và bụi cùng lông bay tứ tung. Họ đưa tôi may những đường chỉ cho cái mũ của áo , tôi đạp bàn may điện và cầm chiếc mũ vải lạng qua lạng lại theo đường chỉ, đầu óc tưởng tượng  như đang lái chiếc Honda chở người yêu trên đường phố Saigon.
Tôi may hư nhiều quá và bị cho nghỉ việc, mức lương đầu tiên trong đời xứ Canada tháng 4 năm 1979 là 2 đô 75 xu tiền Canada. Người bạn kiếm cho một việc khác làm găng tay da, cũng mức lương 3 đô la. Tôi làm việc mà đầu óc thẫn thờ trong nỗi buồn tha hương, nỗi nhớ nhà, năng suất rất chậm đến nỗi ông già người gốc Do Thái làm chủ nói với một anh kia rằng nếu tôi không phải là người tị nạn Việt Nam thì đã bị đuổi từ lâu. Lúc đó báo chí truyền thông thế giới nhắc nhiều đến thảm cảnh thuyền nhân Việt Nam, danh từ Boat People được đặt ra và trở thành cái tên phổ biến.
Winnipeg là một thành phố của tỉnh Manitoba, được coi là nóng và lạnh nhất của đất nước Canada. Ngày còn ở trại tị nạn chuyển tiếp Mã Lai, có người cho biết là tôi được định cư ở đây, tôi cứ tưởng là thành phố Quebec với Montreal nổi tiếng, người dân nói hai thứ tiếng Anh và Pháp.
Nhờ quen với anh Nguyễn Thành và một số anh cựu phi công VNCH mà tôi được an ủi trong tình đồng hương. Những ngày tháng tư vẫn còn tuyết, qua tháng năm thỉnh thỏang tuyết vẫn rơi đến nỗi tôi nói đùa với bạn rằng cái câu hát " không bao giờ, không bao giờ giữa mùa hè tuyết rơi" ( Không Bao Giờ Ngăn Cách- Trần Thiện Thanh) là không đúng. Tháng năm ở Việt Nam trời mùa hè nóng bức nhưng ở đây Canada tuyết rơi.

Và mùa lạnh giá băng hết nhường cho mùa hè. Những ngày nắng ấm ở Winnipeg trong năm không nhiều nên người dân rất yêu quý cái nắng của mặt trời, lúc này tôi mới hiểu được ý nghĩa của những bài hát ca tụng ngày chủ nhật đẹp có nắng, khác với cái nắng oi bức của Việt Nam làm mồ hôi nhễ nhại.
Ở đây càng hiểu thêm cái câu mùa đông ngày ngắn đêm dài và mùa hè ngày dài đêm ngắn. Buổi chiều tới nhà bạn, cùng ra công viên ngồi ăn uống, mãi đến chín mười giờ đêm mà nắng chiều vẫn còn lưu luyến.
Ở Winnipeg, thành phố tôi đặt chân thưở ban đầu tị nạn dù chỉ 6 tháng nhưng để lại nhiều kỷ niệm khó phai. Năm 1979, Hoa Kỳ và Việt Nam chưa bang giao nên mọi liên lạc thư từ đều bị cấm, chỉ có Canada là nước trung lập nên được gởi thư, gởi quà, điện tín, điện thọai. Khi đến đây tôi đã gởi hai bức điện tín về cho gia đình và người yêu báo tin đã định cư nơi đây.
Một buổi chiều đi làm về tới nhà bạn,  nhận được lá thư của người yêu từ Sài Gòn gởi qua. Nét chữ run run quen thuộc kể nỗi tiếc nuối  một thời bên nhau đã qua, một cơn bão nào đó lướt qua để những trận mưa gió đổ xuống thành phố. Tôi đọc lá thư cả trăm lần, mỗi lần cho cảm giác ngất ngây. Cảm giác tuyệt vời đó đã tạo nên cảm hứng viết thành ca khúc Sài Gòn Em Ở Đó có câu : " Sài Gòn còn mưa bão, đưa em đi phương nào".
Đi làm bằng xe buýt và nhà gần phố nên tôi hay đi bộ lang thang phố xá và những con đường dọc theo công viên. Những người da đỏ bản xứ cũng lang thang giữa phố, họ rất hiền lành, được hưởng trợ cấp trọn đời của chính phủ vì mảnh đất này của họ đã bị dân da trắng và các sắc dân khác tới chiếm cứ.
Tôi nhìn đám mây trên trời và thốt ra câu hát : " Ta đứng đây nơi thành Winnipeg. Trời chiều xanh xanh tới dáng quê xưa. Oâi quê xưa biết bao giờ trở lại. Sài Gòn ơi thôi hết những chiều mưa." Lẩm nhẩm trong đầu và tìm những lời , một ca khúc đang hình thành, đó là bản Chiều Winnipeg.
Tôi đến nơi này tháng 4 và sau đó liên lạc được với Nguyễn Ngọc Ngạn ở Vancouver, nơi ấm áp hơn và có những sinh hoạt văn nghệ vui vẻ hơn nên tôi quyết định từ giã Winnipeg vào khỏang tháng 10, 1979.
Tôi leo lên chiếc xe Greyhound, xe búyt dài chạy về hướng tây đất nước Canada, xuyên qua dãy núi Rocky Mountain hùng vĩ để đến Vancouver. Mấy anh cựu quân nhân định cư trứơc từ năm bảy lăm cùng nhau ra tiễn tôi tại nhà ga. Dù chỉ mấy tháng sinh họat với nhau nhưng để lại nhiều kỷ niệm, người Việt tại thành phố này chừng vài trăm thời đó nên quen biết nhau coi như trong xóm trong làng.
Hôm nay đúng 30 năm kể từ ngày tôi đến Winnipeg, Canada. Thấm thóat thời gian như giấc mơ. Tôi chưa hề trở lại thành phố dễ thương này và tôi cũng không thấy lại những đồng hương VN thuở đó. Chỉ có anh Nguyễn Thành sau này dọn về Vancouver, chúng tôi có gặp nhau và hai năm trước nghe tin  anh đã qua đời vì bệnh ung thư.
Xin chép lại lời bài hát Chiều Winnipeg, một kỷ niệm về một thành phố ghi dấu nỗi bơ vơ tị nạn, nỗi buồn xa xứ,  để tặng những anh ở thành phố này và những ai có chung tâm trạng tha hương. Bài hát được Ngọc Trọng, Jo Marcel, Thảo My, Duy Quang và Thanh Lan trình bày, có một vài lời không đúng nguyên bản của tác giả.
 Ta đứng đây nơi thành Winnipeg. Trời chiều xanh xanh tới dáng quê xưa. Oâi quê xưa biết bao giờ trở lại. Sài Gòn ơi thôi hết những chiều mưa.
Mây vẫn trôi mang hồn tên viễn xứ. Về nơi đâu đây đất khách quê xa. Gió lá bay buốt lòng thân trơ trọi. Em hỡi em có biết chăng nỗi nhớ nhà.
Winnipeg lạnh lùng tuyết trắng xóa mênh mông, giá băng cho thấm thía nỗi mùa đông. Winnipeg chiều hè dài nắng đổ, màu nắng hanh người hỡi có còn mơ.
Mơ thấy em một ngày sang đất mới. Để cùng nhau chung kiếp sống phiêu linh. Mơ thấy quê hương một ngày thanh bình. Ta vẫn mơ ta mãi mơ mơ suốt đời.
San Jose- 10-4-2009
Kỷ niệm 30 năm đến Winnipeg

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tưởng tượng một khu vườn xinh đẹp như vườn thượng uyển của vua chúa ngày trước với hoa lá muôn màu lung linh trong gió hiền và nắng ấm. Rồi bỗng dưng một cơn mưa đá đổ xuống. Cây, lá, cành, nụ… đủ sắc màu quằn quại dưới những cục đá thả xuống từ không gian. Tàn cơn mưa, những nụ, những hoa, những cánh lá xanh non tan nát. Những cục nước đá tan đi. Bạn không còn tìm ra dấu vết thủ phạm, bạn chỉ thấy những thứ bạn phải gánh chịu: ấy là những tổn thất bất ngờ. Ở một nơi mà vô số các sắc tộc sống chung với nhau như Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, mỗi ngôn ngữ là một loài hoa đầy hương sắc trong khu vườn muôn sắc màu ấy. Nhưng rồi trong trận thiên tai, mỗi sắc lệnh của chính phủ là một hòn đá ném xuống, hoa lá cành tan nát theo nhau. Bạn không biết những cơn mưa đá còn bao lâu. Bạn cũng không thể nào đoán trước được những tổn thất chúng đổ xuống cho khu vườn yêu quý mà bạn dày công gầy dựng.
Elon Musk đang có một vị trí vô cùng quan trọng trong chính quyền mới của Trump. Là người đứng đầu Bộ Cải Tổ Chính phủ (Department of Government Efficiency – DOGE), Musk có quyền lực gần như vô hạn trong việc cắt giảm hoặc tái cơ cấu lại chính phủ liên bang theo ý mình. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, Musk còn có ảnh hưởng đến tổng thống trong nhiều vấn đề chiến lược quan trọng. Một trong những vấn đề nổi bật chính là TQ. Trong khi phần lớn nội các của Trump đang theo đuổi chính sách cứng rắn đối đầu với Bắc Kinh, Musk lại là một ngoại lệ rõ rệt. Là một chuyên gia về quan hệ Mỹ - Trung, Linggong Kong (nghiên cứu sinh của trường Auburn University) không hề ngạc nhiên trước những phát biểu ủng hộ Bắc Kinh của Musk trong suốt nhiều năm qua. Bởi lẽ, từ trước đến nay, ông luôn tìm cách mở rộng hoạt động kinh doanh tại TQ.
Một nữ nhà văn sống ở Pháp, bày tỏ trên Facebook của bà rằng: “Xin tiền, rất khổ! Zelenski không chỉ khẩu chiến với Trump mà cả... Biden. Hai tổng thống đã cãi nhau trong một cuộc điện đàm tháng 6/2022, khi Biden nói với Zelensky rằng ông vừa phê duyệt thêm $1 tỷ viện trợ quân sự cho Ukraine, Zelenski lập tức liệt kê tất cả các khoản viện trợ bổ sung mà ông ấy cần. Sự không biết điều này đã khiến Biden mất bình tĩnh, ông liền nhắc nhở Zelenski rằng người Mỹ đã rất hào phóng với ông ấy và đất nước Ukraine, rằng ông ấy nên thể hiện lòng biết ơn nhiều hơn.”
“Nếu tôi muốn nói chuyện với Âu Châu, tôi phải gọi cho ai?” Câu hỏi nổi tiếng này, được cho là của cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger, ám chỉ sự thiếu thống nhất của Âu Châu trong việc thể hiện một lập trường chung trên trường quốc tế. Dù đã trải qua nhiều thập niên hội nhập dưới mái nhà Liên Âu (EU), câu hỏi ai là đại diện cho Âu Châu – hoặc Âu Châu muốn trở thành gì trong tương lai – hiện nay có lẽ còn khó trả lời hơn bao giờ hết.
Bài phát biểu dài 1giờ 40 phút của Tổng thống Donald Trump trước Quốc hội đã nêu cao nhiều sáng kiến ​​của ông, từ việc trấn áp nhập cư đến thuế quan và chính sách năng lượng trong sáu tuần bắt đầu nhiệm kỳ của mình, nhưng nhiều bình luận của ông bao gồm thông tin sai lệch và gây hiểu lầm.
Khoa học gia người Mỹ da đen nổi tiếng vào đầu thế kỷ 20 George Washington Carver (1864-1943) đã từng nói rằng, “Giáo dục là chìa khóa mở cánh cửa vàng của tự do.” Đúng vậy! Chính vì vai trò quan trọng của giáo dục đối với tự do mà các nhà cách mạng Việt Nam vào đầu thế kỷ 20 như Phan Chu Trinh (1872-1926), Phan Bội Châu (1867-1940) đã tận lực vận động cho việc nâng cao dân trí để canh tân đất nước hầu có thể giải phóng dân tộc thoát khỏi ách nô lệ của thực dân Pháp. Đất nước Hoa Kỳ nhờ có tự do, dân chủ và dân trí cao mà trở thành đại cường quốc trên thế giới. Nền giáo dục của Mỹ đã trở thành kiểu mẫu được nhiều nước ngưỡng mộ, cho nên số lượng sinh viên ngoại quốc du học tại Mỹ là cao nhất trên toàn cầu, với 1,126,690 người vào năm 2024, theo https://opendoorsdata.org.
Tổng thống Donald Trump vẫn luôn có sở thích tự đặt biệt danh cho chính mình: từ “thiên tài vững chãi,” “Don Trung Thực,” và giờ thì lên hẳn ngôi “vua.” Nhưng lần này, danh xưng vua chúa mà ông tự phong đã khiến nhiều người phải giật mình suy nghĩ. Hôm thứ Tư tuần qua, Trump tuyên bố “đánh bại” kế hoạch thu phí giao thông của New York dành cho Manhattan để giảm kẹt xe. Ông hớn hở đăng trên Truth Social: “KẾ HOẠCH THU PHÍ GIAO THÔNG ĐI TOONG RỒI. Manhattan và toàn bộ New York đã ĐƯỢC CỨU. HOÀNG ĐẾ VẠN TUẾ!”
Chúng ta thử nhắm mắt hình dung một ngày nọ, tất cả những cơ quan đầu não chiếm vị trí hàng đầu trong nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia nằm dưới sự lãnh đạo của các nhân vật có số năm kinh nghiệm là số 0. Chưa hết, Hoa Kỳ nay đứng về phía Nga và các quốc gia phi dân chủ, bỏ phiếu chống nghị quyết của Liên Hiệp Quốc lên án cuộc xâm lược Ukraine.
Nhà văn Võ Hồng ví von: “Bụng to như bụng xe đò.” Nhận xét của ông, rõ ràng (và hoàn toàn) không… trật! Xe đò thường đầy khách mới chịu rời bến nhưng trên đường đi tài xế vẫn luôn dừng bánh “hốt” thêm mấy con nhạn là đà để kiếm thêm chút đỉnh. Khách lên sau thì ngồi ghế súp.
Gần ba năm sau khi Nga tấn công xâm lược Ukraine, Mỹ và Nga đang bắt đầu xúc tiến công cuộc đàm phán, nhưng Mỹ tuyên bố là châu Âu không được tham gia diễn biến này. Do đó, nhiều tranh chấp cố hữu giữa châu Âu và Mỹ về Ukraine mang lại một sắc thái nghiêm trọng hơn, trong khi chiến tranh vẫn còn tiếp diễn. Hiện nay, châu Âu có những phản ứng quyết liệt vì muốn trực tiếp tham gia vào tiến trình đàm phán.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.