Hôm nay,  

Trung Quốc Và Quan Hệ Hoa Kỳ - Việt Nam

5/31/200700:00:00(View: 9545)

Cuối năm 2006, các quan sát viên trên thế giới về quan hệ Hoa Kỳ và Việt Nam ghi nhận có một sự cải tiến quan hệ rõ ràng giữa hai quốc gia. Một số sự việc diễn ra.

Hoa Kỳ rút Việt Nam ra khỏi danh sách CPC, tổng thống Bush đi Hà Nội tham dự hội nghị các nước ven Thái bình dương (APEC), quốc hội Hoa Kỳ thông qua quy chế PNTR, Việt Nam được trở thành hội viên WTO. Tại Hà Nội tổng thống Bush đã không tuyên bố một điều gì có thể làm phật lòng Hà Nội ngoài việc tiết lộ (có tính toán) rằng ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có con đang học tại Hoa Kỳ. Sau APEC, hai thủ đô Việt, Mỹ bắt đầu bận rộn chuẩn bị chuyến thăm viếng chính thức của chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết sang Hoa Kỳ dự trù vào cuối tháng 6/2007.

Các quan sát viên, trong đó có giáo sư Carl Thayer, chuyên viên về các vấn đề Việt Nam tại Úc cho rằng chỉ có một thỏa thuận chiến lược giữa Hoa Kỳ và Việt Nam mới có thể tạo ra những “tan băng” ngoạn mục như vậy.

Quan hệ chiến lược này là quan hệ gi" Thật khó giải đoán trong lúc này. Nhưng nếu không có một giao ước thì khó giải thích được tại sao sau khi vào WTO, sau khi tổ chức thành công hội nghị APEC và được các nước trên thế giới ca ngợi sự thành công về mặt phát triển kinh tế, Việt Nam bỗng ra tay với những người đấu tranh dân chủ trong nước với những phiên tòa, tuy có để cho phóng viên nước ngoài tham dự qua trực tiếp truyền hình (close circuit TV), nhưng hoàn toàn hình thức với những cái án định sẵn để khóa miệng phong trào dân chủ, và chính phủ Hoa Kỳ thoạt tiên không có phản ứng gì trước các cuộc đàn áp thô bạo này.

Nhưng một sự cố ngoại giao đã xẩy ra. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đi Bắc Kinh gặp các nhà lãnh đạo Trung quốc giữa tháng 5, một tháng trước chuyến công du Hoa Kỳ. Chuyến đi Bắc Kinh bất ngờ của ông Nguyễn Minh Triết cho thấy Việt Nam chịu áp lực mạnh mẽ của Trung quốc, và Trung quốc quyết dùng áp lực này để phá thế chiến lược Việt Nam vừa mới hình thành với Hoa Kỳ. Điều này chứng tỏ một sự việc quan trọng là, Bộ chính trị và Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam có một sự chia rẽ trầm trọng và phe thân Bắc Kinh (nắm giữ quân đội và công an) đang ở thế thượng phong, và phe này nhất định dùng thế của mình để không cho phép Việt Nam xích lại gần Hoa Kỳ. Trung quốc đang chuẩn bị đại hội đảng thứ 17 và ông Hồ Cẩm Đào, được bầu làm Tổng bí thư đảng tại đại hội 16 không muốn để lộ ra một dấu hiệu yếu kém nào đối với Hoa Kỳ.

Chính phủ Hoa Kỳ tỏ ra khá bực bội trước hành động của Hà Nội và đã đặt lại vấn đề thăm viếng của ông Triết, nhất là sau khi Liên hiệp Âu châu, các tổ chức nhân quyền trên thế giới, các tổ chức đấu tranh cho dân chủ tại hải ngoại đồng loạt lên tiếng trước thái độ đàn áp của Hà Nội, điển hình là tấm hình công an bịt miệng linh mục Nguyễn Văn Lý trước tòa án.

Trước hết là nguồn tin Hoa Kỳ sẽ chỉ đón tiếp chủ tịch nhà nước Nguyễn Minh Triết theo nghi lễ một chuyến thăm viếng làm việc (working visit), nghĩa là không có nghi lễ đón tiếp quốc trưởng (state visit - gồm súng bắn chào, đại yến, trú tại nhà khách quốc gia, và diễn văn trước lưỡng viện quốc hội), và sau đó có tin có thể chuyến đi sẽ được hoãn lại.

Cuối cùng có lẽ chuyến đi của ông Triết sẽ diễn ra sau khi Hà Nội hứa thỏa mãn một số điều kiện của Hoa Kỳ như (ít nhất") trả tự do cho Nguyễn Vũ Bình như bộ trưởng ngoại giao Phạm Gia Khiêm đã hứa với bà bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Condoleezza Rice mấy tháng trước. Ngoài ra trước thái độ thiếu ngoại giao của Hà Nội, Hoa Kỳ đã làm một hành động chưa từng có trong 32 năm qua kể từ ngày miền Nam sụp đổ.

Hôm Thứ Ba 29/5/2007 đích thân tổng thống Bush gặp đại diện một số tổ chức đấu tranh tại hải ngoại một cách trang trọng tại phòng làm việc của tổng thống (nơi ông sẽ tiếp ông Triết) với sự hiện diện đầy đủ các cố vấn cao cấp của tổng thống. Mục đích của cuộc gặp gỡ trao đổi này trước hết để hóa giải sự im lặng của ông trước đây khi tới Hà Nội dự hội nghị APEC, nhưng chính yếu là để gián tiếp cảnh giác Hà Nội rằng Hoa Kỳ vẫn còn một tích sản (asset) chưa xử dụng.

Hoa Kỳ không muốn hủy bỏ chuyến đi của chủ tịch nhà nước Nguyễn  Minh Triết vì những quyền lợi chiến lược của mình, và Hà Nội sau khi tỏ ra thần phục Bắc Kinh cũng không muốn hủy bỏ chuyến đi, dù Hoa Kỳ xuống cấp cuộc tiếp đón và tiếp đón đại diện các tổ chức đấu tranh. Điều này chứng tỏ Hoa Kỳ và Việt Nam vần còn xem giao ước chiến lược giữa hai nước vẫn còn là một giao ước có lợi cho cả hai bên, nhất là phía Hoa Kỳ, dù thế nào cũng không thể bỏ Việt Nam rơi vào đôi cánh tay đang mở rộng của Trung quốc.

Dù không nói ra Hoa Kỳ cũng biết rằng địch thủ chính của Hoa Kỳ trong thế kỷ 21 là Trung quốc. Nhưng Trung quốc khéo léo không để lộ mục tiêu chiến lược của mình. Sách lược của Trung quốc là làm vui lòng Hoa Kỳ những việc không quan trọng, nhưng không nhượng bộ Hoa Kỳ trước những góc cạnh chiến lược lớn như quan hệ giữ Hoa Kỳ và Việt Nam.

Hai năm qua Trung quốc tỏ ra rất mềm dẻo với Hoa Kỳ, và giúp Hoa Kỳ giải quyết căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Bắc Hàn, nhưng Hoa Kỳ biết Trung quốc vẫn âm thầm chuẩn bị thế lực cho một cuộc đụng độ với Hoa Kỳ trong tương lai, nếu không phải do vấn đề Đài Loan thì cũng do một đụng chạm quyền lợi nào đó không tiên liệu được. Năm 2005 ông nguyên bộ trưởng quốc phòng Donald Rumsfeld đã cảnh giác sự việc này trước hội nghị bộ trưởng các nước Á châu.

Từ tháng Giêng 2007 vừa qua sau khi Trung quốc phóng hỏa tiễn bắn một vệ tinh nhân tạo của mình đang bay trên quỹ đạo quanh quả đất, Hoa Kỳ tỏ ra rất lo âu (1) vì nó chứng tỏ rằng trong trường hợp chiến tranh Trung quốc có khả năng bắn hạ các vệ tinh truyền tin của Hoa Kỳ, chẳng những làm tê liệt hệ thống liên lạc quân sự của Hoa Kỳ mà còn gây ảnh hưởng trầm trọng đến sinh hoạt kinh tế toàn cầu. 

Đồng thời, theo báo cáo thường niên của Bộ quốc phòng Hoa Kỳ gởi đến quốc hội phổ biến hôm 25/5/2007 (2) giới quốc phòng Hoa Kỳ ghi nhận rằng Trung quốc có những chuẩn bị chiến tranh ngoài tầm vóc một biến cố đối với Đài Loan. Trung quốc tăng cường lực lượng hải quân để có khả năng tấn công các mục tiêu trên Thái bình dương và bảo vệ các thủy lộ cung cấp dầu hỏa cho Trung quốc. Trong năm qua Trung quốc tăng số hỏa tiễn nhắm vào Đài Loan từ 800 lên 900 , và đồn trú 400.000 quân nhân (trong tổng số 1.400.000 quân) trong bốn quân khu dọc bờ biển đối diện với Đài Loan. Trung quốc nâng tổng số ngân sách quốc phòng lên 125 tỉ mỹ kim tức bằng ba lần con số 45 tỉ như Trung quốc chính thức công bố. Bản báo cáo ghi nhận rằng Trung quốc phát triển khả năng quân sự để có thể tấn công các lực lượng quân sự của Hoa Kỳ trong vùng Thái bình dương trong trường hợp Trung quốc tấn công Đài Loan và Hoa Kỳ quyết định đưa quân đến cứu.

 Ngoài ra Trung quốc “di động hóa” hệ thống nguyên tử tầm xa bằng cách lấy đạn nguyên tử ra khỏi các vị trí cố định và đặt trên các tiềm thủy đỉnh hay các dàn phóng lưu động.

Để tránh sự lo âu quá đáng của quốc hội, bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Robert Gates nói ông không cho các chuẩn bị này của Trung quốc có tính cách đe dọa Hoa Kỳ. Trong bản báo cáo nói trên ông ghi nhận rằng để phát triển kinh tế Trung quốc cần dầu mỏ, do đó Trung quốc có nhu cầu phát triển hải quân để bảo vệ các đường tiếp tề dầu, nhưng Trung quốc khó có khả năng bảo đảm nhiệm vụ này nếu  Hoa Kỳ quyết tâm ngăn chận. Theo đô đốc hồi hưu Dennis Blair, cựu tư lệnh quân đội Hoa Kỳ vùng Thái Bình Dương hải quân Hoa Kỳ có khả năng kiểm soát và bảo vệ các hải đạo huyết mạch trên thế  giới (3)

Nhưng điều này không có nghĩa sẽ có chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Trung quốc trong một tương lai có thể thấy được. Bởi lẽ Trung quốc cần ít nhất vài chục năm nữa may ra mới có thế đương đầu với Hoa Kỳ. 

Nhưng trên con đường tăng cường thế lực Trung quốc sẽ củng cố những vùng đã chiếm như Mãn châu ở mạn bắc, Tây Tạng ở mạn tây và bành trướng ở mạn nam. Việt Nam nằm ngay trên con đường cần bành trướng của Trung quốc.

Trong tình huống hiện tại Việt Nam chỉ có khả năng bảo vệ đất nước nếu có hai điều kiện: thứ nhất là một bộ máy lãnh đạo đoàn kết quyết tâm bảo vệ bờ cỏi. Thứ hai là tìm một thế liên minh chiến lược với siêu cường nào đồng quyền lợi.

Qua chuyến công du Hoa Kỳ gặp nhiều trục trặc của chủ tích nước Nguyễn Minh Triết, chúng ta thấy bộ máy lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam đang bị chia rẽ trầm trọng bởi thành phần thân Trung quốc trong Bộ chính trị và Trung quốc đang làm bất cứ gì có thể để khơi sâu thêm sự chia rẽ này để phá vỡ bất cứ thế liên minh nào giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.

Trần Bình Nam

May 31, 2007

[email protected]

www.tranbinhnam.com

Tài liệu tham khảo:

(1)   “China’s Space Odyssey” của Bates Gill & Martin Kleiber – tạp chí   Foreign Affairs số tháng 5 & tháng 6, 2007

(2)  Los Angeles Times May 26, 2007, by Peter Spigel

(3) “Smooth Sailing: The World’s Shipping Lanes Are Safe” by Dennis Blair & Kenneth Lieberthal - tạp chí Foreign Affairs số tháng 5 & g 6, 2007

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.