Hôm nay,  

Ân Xá Hay Không Án Xá Ông Lewis “Scooter’ Libby

25/06/200700:00:00(Xem: 8330)

Chữ trinh còn một chút này

Xin cầm cho vững, chớ giày cho tan

(Phỏng “Truyện Kiều”)

Trong tháng Năm, sau khi một bồi thẩm đoàn kết luận ông Lewis “Scooter” Libby có tội nói dối để cản trở sự thi hành pháp luật và ông chánh án liên bang Reggie Watson xử 30 tháng tù ở, dư luận bắt đầu đặt vấn đề tổng thống Bush có nên dùng quyền hiến định để tha tội cho ông Libby không.

Cuộc tranh luận nên hay không nên ân xá ông Libby mang nặng màu sắc chính trị. Những người Cộng hòa gồm các dân biểu, nghị sĩ và các tờ báo thiên hữu lên tiếng thuyết phục tổng thống Bush nên tha tội cho ông Lewis “Scooter” Libby vì ông là một công chức hết lòng phục vụ quốc gia. Trong khi đó những tờ báo tả khuynh và các dân biểu, nghị sĩ thuộc đảng Dân chủ chủ trương không nên tha cho ông Libby để duy trì nguyên tắc ai cũng như nhau trước pháp luật.

Nếu đứng trên quan điểm chính trị “phủ bênh phủ, huyện bênh huyện” thì không có gì để tranh cãi. Nhưng nếu đặt vấn đề trên bình diện quyền lợi và uy tín của Hoa Kỳ thì vấn đề ân xá hay không ân xá ông Libby là một vấn đề lớn liên quan đến giá trị của Hoa Kỳ là một quốc gia có truyền thống tôn trọng luật pháp.

Bản Hiến Pháp Hoa Kỳ có 7 Điều và 27 Tu chính . Điều II, mục 2  ban cho tổng thống Hoa Kỳ quyền miễn truy tố hay ân xá tội nhân bị một tòa án xử phạt vì vi phạm luật lệ quốc gia, ngoại trừ quyền bãi miễn sự truất phế chức vụ (1).

Những người Mỹ lập quốc khi ghi Điều khoản này trong Hiến Pháp nghĩ đến những trường hợp tế nhị mà sự truy tố hay xử phạt một công dân có thể làm chia rẽ quốc gia và làm mất ổn định của xứ sở. Cũng dự trù trường hợp có người chỉ vì tưởng phục vụ quyền lợi quốc gia mà vô tình phạm luật.

Hiến Pháp khoán trắng quyền ân xá này cho tổng thống, nhưng thực tế có văn bản quy định thủ tục thi hành, thí dụ tổng thống cần lấy ý kiến của bộ Tư Pháp và nhất là thăm dò dư luận của quần chúng trước khi quyết định. Trong gần nửa thế kỷ qua các vị tổng thống Hoa Kỳ (trừ tổng thống Bill Clinton) đều hành xử quyền này một cách hết sức thận trọng và có trách nhiệm, tin chắc rằng việc ân xá sẽ mang lại không khí tươi mát cho quốc gia và làm cho nền dân chủ pháp trị của Hoa Kỳ bền vững hơn.

Ngày 8 tháng 9 năm 1974 tổng thống Ford đã ân xá tất cả những tội tổng thống Nixon đã phạm từ ngày 20/1/1969 là ngày ông Nixon nhậm chức tổng thống cho đến ngày 9/8/1974 (tổng thống Nixon từ chức ngày 8/8/1974 trước sự truất phế không tránh được vì sự lạm quyền, bao che sự tiến hành luật pháp của ông trong vụ Watergate). Sự ân xá này vào lúc đó đã bị dân chúng Hoa Kỳ phản đối, và có thể hành động ân xá của ông đã làm ông thất cử tổng thống năm 1976, nhưng lịch sử (tuy qua chưa lâu) đã chứng minh được rằng tổng thống Ford có lý.

Trong lời phát biểu trước quốc dân tổng thống Ford nói: “Lương tri cho tôi thấy chúng ta không nên kéo dài cơn ác mộng này. Lương tri cũng bảo tôi dùng quyền hiến định để kết thúc câu chuyện buồn thảm này. Quốc gia cần ổn định. Tôi cũng không thể dựa vào dư luận để biết mình phải làm sao cho đúng. Có thể tôi sai, và nếu tôi sai và có 10 vị thiên thần bảo tôi đúng cũng chẳng có nghĩa gì. Nhưng trong tận cùng của trái tim tôi, không phải của một vị tổng thống mà là một sinh vật bé nhỏ trong Trời đất tôi biết rằng nếu tôi không đủ can đảm để tha thứ (cho ông Nixon) Trời đất sẽ chẳng rộng lượng khi phán xét tôi.

Sau cùng đồng bào biết rằng ông Richard Nixon và gia đình ông đã chịu đựng và còn chịu đựng nhiều dù chúng ta và quốc gia vĩ đại này có làm gì đi nữa.

Cho nên, tôi, Gerald R. Ford, tổng thống Hoa Kỳ, thi hành Điều II, khoản 2 của bản Hiến Pháp ân xá mọi tội lỗi của công dân Richard Nixon đã phạm hay có thể đã phạm phải trong thời gian từ ngày 20 tháng 1 năm 1969 cho đến ngày 9 tháng 8 năm 1974”. (2)

Lời lẽ của tổng thống Ford cho thấy ông cân nhắc và trăn trở như thế nào trước quyết định ân xá cựu tổng thống Nixon.

Dưới thời tổng thống George H. Bush (1988-1992), sau khi thất cử  tổng thống nhiệm kỳ 2, và trước khi mãn nhiệm, ngày 24/12/1992 tổng thống đã ân xá cho cựu bộ trưởng quốc phòng Caspar Weinberger và 5 nhân viên chính phủ (gồm ông Elliott Abrams, nguyên phụ tá bộ trưởng ngoại giao phụ trách các nước Mỹ châu, Robert McFarlane, nguyên cố vấn an ninh quốc gia, và Duane Clarridge, Alan Fiers, Clair George thuộc cơ quan CIA) đã nhận tội có dính líu trong việc bán vũ khí cho Iran để lấy tiền lời giúp quân Contras chống chính phủ thân cộng tại Nicaragua trong khi luật cấm dùng ngân sách quốc gia giúp đỡ cho quân Contras đang có hiệu lực .

Tổng thống George H. Bush nói rằng: “… mẫu số chung hành động của những công dân này dù sai hay đúng đều do sự thúc đẩy bởi lòng yêu nước. Họ không hành động vì lợi lộc riêng tư. Cả sáu người đều đã trá giá bằng tiền bao năm dành dụm được (cho luật sư), và đang đứng trước một tương lai vô định và sự bất an của gia đình. Cái giá này cũng đã quá cao đối với những sai trái họ đã làm” (3)

Vụ ân xá gần nhất do tổng thống Clinton ban hành vào buổi sáng ngày 20/1/2001 chỉ mấy giờ trước khi ông rời chức vụ. Danh sách gồm 140 nhân vật trong đó có ông Roger Clinton, người anh em cùng cha khác mẹ với tổng thống Clinton phạm tội buôn bán ma túy, và không có một biện minh nào để chống đỡ hành động lạm dụng Hiến Pháp của ông. Câu chuyện đã qua đi nhưng nay bà Hillary Clinton ra tranh cử tổng thống, bộ xương khô này sẽ được các ứng cử viên Cộng hòa lôi ra khai thác, và bà Clinton sẽ phải trả giá cho chồng.

Trở lại câu chuyện ông Lewis “Scooter” Libby. Ông Libby nguyên là phụ tá của Phó tổng thống Dick Cheney. Ông liên hệ đến vụ án tiết lộ bà Valery Plame vợ của đại sứ Joseph Wilson là nhân viên mật của cơ quan CIA, và dư luận báo chí tin rằng mục đích tiết lộ là để trả thù ông Wilson vì ông này đã tiết lộ rằng việc tổng thống Bush nói ông Saddam Hussein có mua quặng Uranium của Niger là bịa đặt để có cớ đánh Iraq. Ông Wilson là người được CIA gởi đi Niger để điều tra vụ mua bán Uranium này.

Theo luật Hoa Kỳ, tiết lộ danh tính một nhân viên tình báo mật cũng như man khai trước một đại bồi thẩm đoàn (grand jury) là một hình tội. Và trong cuộc điều tra của cơ quan cảnh sát liên bang bang FBI cũng như trước đại bồi thẩm đoàn công tố viên đặc biệt Fitzgerald Patrick đã chứng minh rằng ông Libby khai láo với cơ quan FBI cũng như với bồi thẩm đoàn và truy tố ông ra tòa về tội cố tình ngăn trở cuộc điều tra để tìm ra ai là thủ phạm vụ tiết lộ công việc của bà Plame. Sau khi bị truy tố ông Libby buộc phải từ chức. Và chánh án liên bang Watson trong phiên tòa ngày 5/6/2007 đã kêu án ông Libby 2 năm rưỡi tù ở . Ông Libby kháng án dựa vào điểm pháp lý là công tố viên Patrick Fitzgerald do bộ Tư pháp bổ nhiệm làm công tố viên đặc biệt điều tra vụ bà Valery Plame chưa được Thượng viện phê chuẩn, hy vọng khỏi vào tù trong thời gian kháng án. Tuy nhiên chánh án Watson cho rằng điểm pháp lý của ông Libby không đứng vững (vì không có luật nào quy định công tố viên đặc biệt để điều tra viên chức cao cấp của chính quyền do bộ trưởng Tư pháp bổ nhiệm cần phải được Thượng viên phê chuẩn) và quyết định ông phải trình diện để vào tù trong thời gian kháng án. Nếu ông Lewis “Scooter” Libby vào tù thì đây là viên chức cao cấp liên bang đầu tiên bị tù kể từ vụ Watergate trong thập niên 70’s.

Trước đây tổng thống Bush đã cho biết ý kiến của ông là hãy để cho luật pháp tiến hành theo luật định. Người ta đoán rằng nếu thủ tục tòa án kéo dài thì đến sau cuộc bầu cử tổng thống tháng 11 năm 2008 chắc cũng chưa xong. Đến lúc đó ông không còn bị ràng buộc gì cả, cuộc chiến Iraq có thể cũng đã có giải pháp, vụ việc bà Valery Plame và ông Lewis “Scooter” Libby cũng dịu bớt qua thời gian và qua không khí chuyển tiếp chính quyền ông sẽ ân xá (nếu vụ kháng cáo thất bại) cho ông Libby cũng không muộn, và sẽ không gây tác hại gì nhiều cho đảng Cộng hòa và uy tín trọng pháp của Hoa Kỳ.

Nhưng với án lệnh của chánh án Reggie Watson, tổng thống Bush phải có quyết định ân xá ông Libby (hay không) nếu không muốn ông Libby ngồi tù. Trong một bối cảnh không thuận lợi cho đảng Cộng hòa, nào là vụ ngụy tạo tin tình báo để đánh Iraq, nào là vụ dân biểu Randy “Duke” Cunningham (Cộng hòa, California) ăn hối lộ vào tù, nào là vụ ông Paul Wolfowitz giám đốc Ngân hàng Thế giới do tổng thống bổ nhiệm lợi dụng chức vụ ưu đãi người tình phải từ chức, nào là bộ Tư pháp cách chức bảy công tố viên liên bang chỉ vì không phục vụ đảng Cộng hòa như đảng Cộng hòa mong muốn, uy tín của tổng thống Bush đang xuống thấp, tổng thống Bush đang đứng trước một vấn đề nan giải .

Đứng trên lẽ phải trái, không có căn bản nào để tổng thống Bush ân xá cho ông Libby. Về mặt nội bộ ân xá ông Libby sẽ làm xáo trộn lòng dân và là một thái độ khiêu khích đảng Dân chủ. Đảng Dân chủ còn rất nhiều chuyện xếp trong hồ sơ chưa khui ra để hạch hỏi đảng Cộng hòa (vì đất nước đang có chiến tranh), và “cơn bão ân xá” sẽ ảnh hưởng không ít đến cuộc bầu cử quốc hội và bầu cử tổng thống tháng 11 năm 2008.

Nhưng điều quan trọng hơn là uy tín của Hoa Kỳ. Dù Hoa Kỳ đã phạm những sai lầm do tình hình chiến tranh gây ra, Hoa Kỳ vẫn còn là quốc gia tồn trữ những giá trị cố hữu của thế giới là nước tôn trọng luật pháp và nhân quyền, những giá trị được Liên hiệp quốc long trọng công nhận. 

Bởi vậy sự trọng pháp của Hoa Kỳ chẳng những là sự giữ gìn uy tín của Hoa Kỳ mà còn là một hành động bảo tồn đạo lý của thế giới chúng ta đang sống. Khi đạo lý thế giới bị coi thường con người sẽ trở nên bơ vơ lạc lỏng và sẽ sống với nhau với luật rừng xanh. Cho nên mặc dù Hiến Pháp Hoa Kỳ cho tổng thống quyền ân xá tội phạm, sự xử dụng nó là một hành động đạo lý hơn là luật pháp và hành xử quyền đó là để an dân chứ không phải để che chở bà con, phe nhóm hay bè cánh của mình.

Tổng thống Gerald Ford đã cầu nguyện khi ân xá cho cựu tổng thống Nixon. Tổng thống George H. Bush đã trăn trở khi ân xá những viên chức liên quan trong vụ Iran-contra, tổng thống Bill Clinton đã lợi dụng quyền tổng thống vào giờ thứ 25 để ân xá cho một số người không đáng ân xá với mục đích ân trả oán đền. Lịch sử sẽ công bình phán xét.

Tổng thống George W. Bush sẽ phải cân nhắc cẩn thận trước quyền lợi của đất nước và uy tín của Hoa Kỳ trên thế giới trước khi lấy quyết định ân xá hay không ân xá cho ông Lewis “Scooter” Libby. Lịch sử sẽ nghiêm khắc với ông về quyết định này hơn là quyết định đã đưa Hoa Kỳ vào cuộc phiêu lưu tại Trung đông.

Trần Bình Nam

June 23, 2007

[email protected]

www.tranbinhnam.com

(1) Article II, section 2, U.S. constitution: “… he (the President) shall have Power to Grant Reprieves and Pardons for Offenses against the United States, except in Cases of Impeachment.”

(2)  Nguyên văn: “My conscience tells me clearly and certainly that I cannot prolong the bad dreams that continue to reopen a chapter that is closed. My conscience tells me that only I, as President, have the constitutional power to firmly shut and seal this book. My conscience tells me it is my duty, not merely to proclaim domestic tranquility but to use every means that I have to insure it. I do believe that the buck stops here, that I cannot rely upon public opinion polls to tell me what is right. I do believe that right makes might and that if I am wrong, 10 angels swearing I was right would make no difference. I do believe, with all my heart and mind and spirit, that I, not as President but as a humble servant of God, will receive justice without mercy if I fail to show mercy.

Finally, I feel that Richard Nixon and his loved ones have suffered enough and will continue to suffer, no matter what I do, no matter  what we, as a great and good nation, can do together to make his goal of peace come true.

Now, therefore, I, Gerald R. Ford, President of the United States, pursuant to the pardon power conferred upon me by Article II, Section 2, of the Constitution, have granted and by these presents do grant a full, free, and absolute pardon unto Richard Nixon for all offenses against the United States which he, Richard Nixon, has committed or may have committed or taken part in during the period from January 20, 1969 through August 9, 1974.”

(3) Nguyên văn:

"The common denominator of their motivation -- whether their actions were right or wrong -- was patriotism. They did not profit or seek to profit from their conduct, and have already paid a price -- in depleted savings, lost careers, anguished families -- grossly disproportionate to any misdeeds or errors of judgment they may have committed.”

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.