Hôm nay,  

Xuân Thiền

10/02/200800:00:00(Xem: 7163)

- Thích Thông Huệ

Đề tài này có vẻ lạ lẫm đối với người đời, nhưng quen thuộc với những người con Phật, và đặc biệt thân thiết với các Thiền Sinh, vì liên quan đến công phu tu tập hàng ngày.

Nói về mùa xuân, ai cũng hình dung đến những điều tốt đẹp đang chờ đón mình trong năm mới. Nhưng rồi mùa xuân cũng đi qua, xuân năm nay trở thành xuân năm trước. Thời gian qua không bao giờ trở lại, như tuổi già không thể quay về thời trai trẻ, con người mỗi ngày một tiến gần đến cái chết. Hiểu rõ điều này không phải để chúng ta có cái nhìn yếm thế bi quan về cuộc đời, mà để nhận ra sự bình đẳng tuyệt đối của lý vô thường chi phối mọi loài vật. Từ đó ta có cách sống phù hợp với đạo lý, chuẩn bị chu đáo cho ngày từ giã cõi đời.

Thiền sư Thiên Tùng có bài kệ:

Sáng nay đều nói thêm một tuổi

Tôi bảo ngày này bớt một năm

Thêm bớt lại qua số khôn tính

Chỉ cần dứt sạch duyên thế gian

Cốt là biết được trong duyên chủ

Trăm ngàn ức kiếp thường an nhiên

Các Thiền sư cũng thường làm thơ, nhưng thơ của các Ngài không chứa đựng những tình cảm thông tục mà trái lại, tràn trề đạo vị. Mượn cảnh bên ngoài, các Ngài diễn tả nội dung tâm chứng của mình, đồng thời nhắc nhở cảnh tỉnh cho người. Sáng ngày mùng một Tết, ai nấy đều mừng nhau thêm một tuổi, chúc nhau tấn tài tấn lợi, hạnh phúc tràn đầy. Chỉ riêng Thiền sư lại thấy mọi người bớt đi một năm trong quỹ thời gian hạn hẹp. Tuy vậy, " Nói thêm nói bớt nói lại nói qua" chỉ là những con số tương đối theo quy ước của người đời. Thật sự, thời gian vốn vô cùng, không gian vốn vô biên, làm sao cân đo đong đếm" " Dứt sạch duyên thế gian" không phải trốn vào rừng xanh tránh duyên, mà vẫn tiếp duyên  nhưng không dính mắc với trần cảnh. Chủ yếu là làm sao trong muôn duyên nhận ra "duyên chủ", thì dù trải qua trăm ngàn ức kiếp cũng đều an nhiên tự tại.

Người chủ trong muôn duyên ấy là ai" Làm sao có thể tự tại giữa hai bờ  sinh - tử, làm sao vĩnh viễn trong Xuân thiền khi bốn mùa đất trời vẫn mãi luân lưu bất tận"

Nhiều tiền thân của Đức Thích Ca là bậc Đại thí chủ. Ngài đã bố thí cúng dường những vật phẩm mà người đời không sao bắt chước được : Tài sản, vợ con, thậm chí móc mắt, chặt tay, chẻ xương, lóc thịt ... để cầu Đạo Vô Thựơng. Nếu hiểu theo nghĩa thông thường, ta khó thể tin được điều phi thực tế ấy. Bởi vì, trừ tiền bạc tài sản, chẳng ai cần đến các bộ phận trong cơ thể ta, trừ những người bệnh phải ghép cơ quan tạng phủ, mà cũng phải trải qua rất nhiều thủ tục xét nghiệm và phẫu thuật phức tạp mới có thể sử dụng được. Thật ra đây chỉ là ẩn dụ. mượn hình ảnh diễn tả công phu tu hành : "Bố thí" là buông xả, không đắm nhiễm, không dính mắc. Người đời khi mắt vừa thấy sắc liền khởi niệm phân biệt đẹp xấu, đẹp khen xấu chê, khen rồi muốn chiếm hữu, xấu lại mong xa lánh. Tương tự khi tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi ... Từ đó tạo nghiệp, nghiệp thiện dẫn đến ba đường lành (Trời - Người - A tu la), nghiệp ác đưa vào ba đường dữ ( Địa ngục - Ngạ quỷ - Súc sanh). Riêng những bậc đạt đạo, dù đang ở trong trần thế, sáu căn vẫn tiếp xúc với sáu trần, vẫn rõ ràng thấy nghe hay biết, nhưng tâm các Ngài không vướng bận, không dao động, ấy  là thực hiện hạnh bố thí tích cực và đầy đủ ý nghĩa nhất.

Luật sư Nguyên đến hỏi Thiền sư Huệ Hải:

- Hòa thượng có dụng công tu tập chăng

Thiền sư đáp:

- Có dụng công

Luật sư hỏi tiếp:

- Hòa thượng dụng công thế nào

- Đói đến thì ăn, mệt đến thì ngủ.

- Mọi người ai cũng như vậy, có thể cho là dụng công giống Hòa thượng chăng"

- Chẳng giống. Khi đói họ chẳng chịu ăn, đòi trăm thứ. Khi mệt chẳng chịu ngủ, tính toán đủ điều.

Phật Hoàng Trần Nhân Tôn trong bài Phú cư trần lạc đạo có bài kệ:

Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên,

Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.

Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,

Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.

Nghĩa:

ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên

Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền.

Trong nhà có báo thôi tìm kiếm,

Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền

Là người, ai cũng có những nhu cầu thiết yếu, trong đó ăn và ngủ là đòi hỏi tự nhiên theo quy luật sinh tồn. Nhưng do sử dụng ý thức phân biệt, nên ăn thì đòi món ngon vật lạ, ngủ còn suy nghĩ tính toán được mất hơn thua. "Đói ăn mệt ngủ" của các Thiền sư, mới nghe tưởng đơn giản nhưng thật sự, đó là cơ phong cao vút của các bậc ngộ đạo hồn nhiên xứng tánh. Các Ngài vẫn ăn vẫn ngủ, nhưng với tinh thần tuỳ duyên, không chọn món ăn ngon, nơi ngủ tốt, cũng không bắt cơ thể chịu đói khát mệt nhọc. Khổ hạnh ức chế là trái với tự nhiên, buông lung hưởng thụ lại sa vào tội lỗi, cả hai cực đoan đều không phù hợp với lý Trung đạo của nhà Phật. Các Ngài đã nhận ra và hằng sống với "Của báu trong nhà", nên ở giữa chợ đời mà vẫn vui với Đạo. Hàng ngày vẫn đối diện với cảnh mà không sinh tâm phân biệt thị phi tốt xấu, vẫn giữa muôn duyên mà tuỳ duyên tiêu nghiệp cũ, thì ngay đó là sống Thiền, đâu cần hỏi Thiền làm chi nữa"

Nhưng làm sao nhận ra "Của báu trong nhà""

Chúng sanh vô minh chấp thân tứ đại là thật, chấp tâm sinh diệt là thật mình, từ đó tạo nghiệp thiện ác rồi quẩn quanh trong lục đạo. Những bậc Giác ngộ nhận ra thân tâm cảnh đều do duyên hợp huyễn có, như điện chớp như sương mai. Ánh sáng giác ngộ bừng lên, bóng tối vô minh tự dưng không còn;  như căn nhà muôn đời tối tăm, khi đèn bật lên tự nhiên sáng rực.Bóng tối lúc ấy trú ẩn nơi nào" Bóng tối không chạy đi đâu khác, ánh sáng cũng không có chổ cư ngụ. Chúng chỉ là hai mặt của thực thể, tạm thời đối đãi qua lại. Tâm người cũng thế khi còn vọng tưởng phiền não tức còn trong bóng tối, khi dứt bặt vọng niệm mà vẫn thấy biết rõ ràng là lúc ánh sáng bừng lên. Như vậy, chúng sanh và Bồ tát đều cùng một bản thể là Tánh giác thường trụ, sẵn đủ ở mọi loài, nếu quên (mê) là phàm phu, nhớ lại (ngộ) là Hiền Thánh.

Mặt khác, những đợt sóng tâm thức chợt có chợt không, mang hình tướng của pháp trần nên có sinh có diệt, còn tánh giác không hình tướng nên không hề có đến đi sinh diệt bao giờ. Phần hữu hình là Sắc, bị hạn cuộc về thời gian và  không gian, thuộc Tích môn. Phần ẩn tàng là Không, là thể tánh nguyên vẹn của vũ trụ vạn loại, thuộc về Bản môn. Đời là mặt hình tướng biêủ hiện, Đạo là phần ẩn tàng không hình tướng. Nhưng người tu không phải bỏ đời cầu đạo, mà từ thế giới hữu vi của Đời mà nhận ra lý Đạo vô vi. Thiền sư Linh Vân trãi qua ba mươi năm đi tìm lẻ thật, chỉ thấy có lá cành rụng khô. Không ngờ của báu sẵn đủ trong nhà, vì mãi phóng tâm đuổi theo cảnh mà cô phụ chính mình. Khi đủ thời tiết nhân duyên, nhìn hoa đào nở, Thiền sư hoát nhiên đại ngộ. Chân lý nào ở nơi hoa đào nở" - Hoa tàn hay nở là sự biến đổi tất nhiên của các pháp. Thiền sư đứng trước Hoa, không khởi niệm dính mắc trên hoa cũng không nhắm mắt chẳng nhìn, mà ngay nơi hoa trực nhận tánh thấy, trở về con người chân thật ban sơ, chưa bao giờ vắng thiếu.

Một vị Tăng hỏi Thiền sư Huệ ở Hoa Nghiêm:

- Người xưa nói: "Vọng tâm không chổ nơi tức Bồ đề". Vậy ngay khi đang vọng có Bồ đề không "

Thiền sư trả lời:

- Lời đáp đã rõ.

Tăng thưa:

- Con không hội.

- Vọng tâm không chổ nơi tức Bồ đề.

Câu đáp của Thiền sư thật không có chổ cho đương cơ bám víu. Nếu Ngài bảo "có" hay "không có Bồ đề". Ngay khi niệm khởi, biết niệm chỉ là hư dối (vọng), tức không chổ nơi sinh ra. biết rõ như thế là Giác (Bồ đề), ngay đó tức là vô sanh (Niết bàn). cảnh giới Niết bàn không ở đâu xa mà ngay đương xứ, khi tâm Đốn ngộ lập cước trên cái thấy như thị, quán triệt thực tướng các pháp đang là trong sát na hiện tiền bất động. Nhận ra sát na vĩnh cữu ấy, Ngài Ca Diếp mỉm cười trong hội Linh Sơn, Lục tổ Huệ  Năng thốt lên:  "Đâu ngờ tánh mình xưa nay thanh tịnh ...". đời tu của các Ngài vượt qua một bước trọng đại, nhà Thiền gọi là chuyển Y, rắn hóa rồng không đổi vảy.

Đại thi hào Nguyễn Du, tác giả truyện Kiều bất hủ, trong giây phút chợt tỉnh trước tảng đá  phân kinh của Thái Tử Lương Chiêu Minh, đã có những câu thơ xuất thần.

Nhân liễu thử tâm nhân tự độ

Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu

Và:

Ngã độc Kim Cương thiên biến linh

Kỳ trung áo chỉ đa bất minh

Cập đáo  phân kinh thạch đài hạ

Tái tri vô tự thị chân kinh.

Thái Kim Lan dịch:

Người tu được tâm độ ấy rồi

Linh Sơn chỉ ở long người thôi

Và:

Ta đọc Kim Cương trên nghìn lượt

Lắm điều sâu kín hiểu không rành

Đài đá phân kinh nay được đến

Mới hay “không chữ” ấy chân kinh.

Một bậc trí đức tài hoa siêu tuyệt như thế, nghiên cứu kinh Kim Cương công phu khó ai sánh nổi như thế, vẫn phải than rằng, còn lắm điều sâu kính diệu mầu chưa hiểu thấu.

Bởi vì, hiểu kinh bằng ý thức phân biệt, bằng tư duy của chất xám thì chỉ hiểu trên mặt văn tự ngôn ngữ, chưa phải là kinh thật. Khi mọi vọng niệm bặt dứt, xoay lại chính mình bắt gặp con người chân thật hằng hữu, mới hay hội Linh Sơn chỉ tại “tâm đầu”, mới hay chân kinh chính là “Kinh vô tự”.

Kinh vô tự mới là kinh chân thật. Vì cớ sao" Vì ở nơi ấy không thể dùng lời diễn tả, không thể dùng ý nghĩ suy. Bặt đường ngôn ngữ, dứt tuyệt tâm hành mà vẫn tường tận rõ biết. Như Lão tử đã nói : “Đạo khả đạo phi thường đạo, Danh khả danh phi thường danh”. Đạo mà còn nói được chưa phải là Đạo thường, Danh mà còn gọi tên được chưa phải là Danh thường. Đạo và Danh chân thường không hình tướng nên không đến đi, không tư lường được nên không có tên gọi. Và cũng vì không tên nên được đặt rất nhiều tên, tùy cảm nhận của đương cơ khi sáng  Đạo (Phật tánh, Pháp thân, Chân tâm, Bản lai diện mục, Ông chủ …) hoặc khi muốn khai thị cho người (Cây Bách trước sân, ba cân gai …). Liên hệ đến cảnh Xuân, các Ngài cũng đã thi vị hóa con người chân thật ấy bằng nhiều tên: Nhất Chi Mai của thiền sư Mãn Giác, Chúa Xuân của sơ tổ Trúc Lâm, Tâm xuân của thiền sư Tuyết Đậu …

Thiền sư Thanh Viễn Phật Nhãn đời Tống diễn tả mùa xuân của Ngài như sau:

Ngày xuân xuân trong núi

Việc xuân thảy đều xuân

Hồ xuân ánh xuân chiếu

Khí xuân hết mây xuân

Khách xuân lòng xuân động

Thi xuân xuân càng tươi

Chỉ có xuân biết xuân

Muôn kiếp một mùa xuân.

Quả là một mùa xuân sung mãn, hiện diện khắp mọi nơi, từ cảnh vật bên ngòai đến tận đáy sâu tâm thức. Thiền sư tu trên núi, thấy ánh nắng ấm áp chiếu trên mặt hồ xanh biếc, không khí trong lành thoang thoảng hương hoa, vài cụm mây trắng bồng bềnh trôi trên bầu trời thênh thang … Ngài biết mùa xuân đất trời đang đến. Người đời trước cảnh xuân, ai cũng thấy lòng rộn rã theo sự đổi mới của thiên nhiên, tươi trẻ theo sắc màu lộng lẫy của ngàn hoa, tưng bừng theo tiếng chim líu lo trên cành. Tâm hồn người biết Đạo cũng chan hòa với vạn vật, nhưng các Ngài thật sự sống với chúa Xuân, thưởng thức Xuân đời bằng Tâm Xuân, nên muôn kiếp vẫn chỉ một mùa Xuân ấy. Khi ngắm cảnh mà có ý thức phân biệt ta là người ngắm, cảnh là đối tượng được ngắm, thì người thưởng xuân chỉ là khách. Nhưng khi Tâm Xuân thưởng ngoạn Xuân đời, thì tất cả đã hòa quyện thành một thể nhất như. Chúa Xuân hiển hiện rõ ràng, luôn luôn có mặt.

Khi vua Lý Thái Tông vào núi thăm Thiền sư Thiền Lão, vua hỏi:

- Hòa thượng ở núi này bao lâu"

Thiền sư trả lời bằng hai câu kệ:

Đản tri kim nhật nguyệt

Thùy thức cựu xuân thu

Dịch:

Sống hôm nay biết hôm nay

Còn xuân thu trước ai hay làm gì

Người đời luôn bận rộn với biết bao nhiêu ý nghĩ, hết suy tính chuyện tương lai đến hoài niệm về quá khứ. Thiền sư thì không thế, các Ngài luôn an trú vững chãi trong giây phút hiện tại, chánh niệm tỉnh giác trên từng biến dđộng của thân, từng thay đổi của tâm và chuyển dời của cảnh. Thân tâm cảnh vô thường chi phối, song các Ngài vẫn viên mãn trong sát na hiện tiền bất động. Vì sao được như thế" Bởi vì:

Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh

Bạch vân minh nguyệt hiện toàn chân

Dịch:

Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác

Trăng trong mây bạc hiện tòan chân

Trực nhận và hằng sống với chánh giác chân thường, thì mọi vật hữu hình hay vô hình đều nằm trong ánh giác, đều hiển hiện pháp thân thường trụ. Có phải đây là khoảnh khắc thiên thu mà “Tình dữ vô tình tề thành Phật Đạo”" Chạm mắt tức Bồ đề, Ta Bà thành tịnh độ, tất cả pháp thế gian chẳng phải là pháp Phật đó sao"

Đối với những bậc đạt đạo, tất cả pháp đều là pháp Phật vì các Ngài đã thẩm thấu tinh thần bất nhị, tư tưởng vút cao của Phật môn. Trong thường tục mà siêu tục, trong khổ đau có hạnh phúc, trong ràng buộc có giải thóat. Không thể tìm hạnh phúc chân chính, tìm giải thoát tuyệt đối ở ngoài chốn đau khổ ràng buộc, cũng như tìm Chúa Xuân không phải chờ mùa đông đi qua. Bởi vì chúa Xuân luôn có mặt, sự an lạc xuất thế gian vẫn được hiện hữu ngay trong cuộc sống đời thường, khi vẫn hay biết rõ ràng mà không còn khởi niệm phân biệt hai bên. Đến đây thì “Thênh thang bầu trời rộng, đứng riêng trong mù tột”. Như Thiền sư Tuyết Đậu ngắm cảnh xuân về trên núi, thấy cành xanh trùng điệp, nước hồ long lánh, trời xanh bát ngát.Tâm Ngài chan hòa cùng muôn tượng mà vẫn đứng riêng trong mù tột, ngay trong cảnh thế gian mà vẫn an vị nơi xuất thế. Từ đó, chúng ta thấm thía hai câu kệ thường được nhắc đến trong nhà Thiền:

Bóng trúc quét sân trần chẳng động,

Vầng trăng xuyên biển nước không chao.

Trong thế giới hữu vi, các Thiền sư vẫn sinh hoạt, vẫn thi thiết nhiều phương tiện độ sanh. Nhưng dù việc gì, ở đâu, các Ngài vẫn luôn an trú ở vô vi, như bóng trúc quét sân không làm bụi bay, vầng trăng chiếu bóng xuống biển không làm nước chao động. Như thế, xuất trần là ở trong trần mà không vướng nhiễm bụi trần, xuất thế gian là vẫn ở trong thế gian mà không bị phiền lụy bởi cuộc sống thế gian. Hình ảnh ông già tay cầm bình rượu tay xách cá chép, bức tranh cuối cùng trong mười bức  tranh chăn trâu Thiền tông, là hình ảnh đẹp tuyệt của những bậc giác ngộ đi vào cuộc đời, tùy duyên hóa độ muôn loài mà không thấy có chúng sanh nào được độ.

Áp dụng vào công phu tu tập, trước hết chúng ta cần dọn dẹp rác rưởi trong kho tâm thức, tức những nghiệp ác của thân miệng ý tích chứa bao đời nay. Dùng nghiệp lành thay thế nghiệp ác, dần dần ta trở nên người hiền thiện, ý luôn nghĩ điều lành, miệng luôn nói lời lành và thân luôn làm việc lành. Ta tưới tẩm tâm mình bằng những ý nghĩ lạc quan tích cực, yêu đời yêu người, mong muốn mọi người đều được hạnh phúc. Tâm ta dần trải rộng, ta thương yêu đồng loại bằng tình thương bình đẳng vô vị lợi, vì biết ai cũng có những nỗi khổ niềm đau cần chia sẻ.

Tích cực làm lợi ích cho người, theo luật nhân quả, tự thân tâm ta thấy an lạc, hòa đồng với tất cả, phiền não tham sân si dần dần giảm thiểu. Theo tinh thần Phước – Huệ song tu, một mặt ta tinh tấn tu hành, một mặt nổ lực giúp đỡ người khác tùy hoàn cảnh và khả năng của mình. Quán chiếu Bát Nhã sâu sắc, thiền sinh thấy rõ thân tâm đều do duyên hợp, chỉ giả lập mà không thật có, thì bao nhiêu phiền não nhiễm nhơ chỉ là hoa đốm giữa hư không. Khi đủ thời tiết nhân duyên, nhận ra con người thật của chính mình, đời tu ta đã có sự chuyển hóa tận gốc rễ. Ta đã có nơi chắc chắn để an thân lập mệnh, đường ta đi không còn lầm lạc, niềm tin ta không cách gì làm lung lay được nữa.

Biết rõ thân tâm cảnh đều không thật, thiền sinh có thể chịu đựng và bình tĩnh ứng phó trước sự thuận nghịch của hoàn cảnh và sự đổi thay của lòng người. Tám gió là thước đo định lực của người tu : lợi lộc, tổn hao, phỉ báng, khen ngợi, ca tụng, nói xấu, cảnh khổ, niềm vui. Đối với người này, tám hòan cảnh trên như những trận bão, với người khác như ngọn gió mạnh, với người tu khá hơn thì chỉ như cơn gió hiu hiu. Đến lúc nào đó, trước tám gió mà ta vẫn bất động an nhiên, tự biết công phu tu tập của ta đã tiến một bước dài.

Ngạn ngữ Anh có câu:

Tự xét mình miễn là không thẹn

Thị phi miệng thế có ngại gì

Cái chấp hai bên là tập khí cố hữu của con người : ưa thiện ghét ác, khen tốt chê xấu … đưa đến thị phi nhân ngã, đầu mối của sự tranh chấp bất hòa làm tổn thương cho mình cho người. Đời sống  Thiền tập giúp người tu luôn xoay lại chính mình, sống với những thời khắc hồn nhiên của tự tánh, siêu vượt thế giới của phân biệt nhị biên. Sự hồn nhiên biểu hiện qua phong cách hàng ngày, tiếp cảnh mà không duyên theo cảnh, sống giữa các pháp mà không làm bạn với pháp nào.

Mặt khác, chúng ta cần cảnh giác với những thuận duyên, vì lửa nóng dễ tránh mà nước mát lại thường làm chết chìm. Hòan cảnh luôn xuôi thuận, làm việc gì cũng thành công, được nhiều người ca tụng, khen ngợi … thường làm con người sinh tâm kiêu mạn, từ đó đường tu đi xuống mà không biết. Ngược lại, nghịch cảnh giúp ta thức tỉnh, cảm nhận sự bất toàn của cuộc sống nên bớt đắm luyến dục lạc thế gian. Gặp nhiều gian nan trở ngại, ta có cơ hội nuôi dưỡng ý chí kiên cường, cố gắng vượt qua sóng to gió lớn. Ví như cái cây mọc trên đất mầu mỡ, thường mau lớn và mau ra hoa kết trái, nhưng lại dễ đổ ngã khi gặp trận cuồng phong. Còn một cây mọc nơi đất đá cằn cỗi, tuy chậm phát triển nhưng khi đã đủ mạnh, lõi cây thường cứng và vững chãi hơn rất nhiều. cho nên, người tu chúng ta không sợ thất bại mà nên tỉnh giác trước thành công; và khi định lực tăng tiến, ta siêu vượt những niềm đau nỗi khổ cùng những niềm vui mừng của thế tục.Tuy tập khí vẫn còn và đôi lúc vẫn bùng lên mãnh liệt, nhưng nhờ công phu thiền tập, ta có sức kham nhẫn tự chủ, không để lạc vào lối rẽ đường mê.

Thiền sư Vạn Hạnh từng bảo:

Sá chi suy thịnh việc đời

Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành

Nếu chúng ta dính mắc vào đời suy thịnh, ta cứ mãi làm khách phong trần, lang thang vĩnh kiếp trong lộ trình sinh tử. Nếu biết thịnh suy, vinh nhục chỉ như giọt sương trên cành cây ngọn cỏ, hư dối không thật, ta có thể an nhiên tự tại trước mọi hòan cảnh. Tự thân công phu theo chánh pháp, nếm mùi pháp hỉ thiền duyệt, ngay nơi bất an mà biểu hiện tự do, ngay chổ ồn ào xáo động mà sống trong sát-na bất động. Khi biết được mình là ai, đời tu của ta tăng tiến rất nhanh mà không sợ lạc lầm. tất cả các pháp luôn chuyển biến theo tiến trình nhân quả, bốn mùa đắp đổi theo nhau, nhưng ngay trong lòng sự biến chuyển đó, vẫn có một cành hoa xuân mãi không bao giờ tàn rụng.

Thiền sinh chúng ta là những người diễm phúc, hưởng được Xuân đời và cả Xuân đạo. trời đất như quán trọ, chúng sanh lên xuống ba cõi như khách qua đường, có khi tạm nghĩ chân giây lát rồi lại tiếp tục cuộc hành trình thiên lý. Nguyên nhân chỉ do điên đảo chấp thân tâm mình là thật, chấp cảnh bên ngòai là thật nên quay cuồng theo chúng mà tạo nghiệp sinh tử. Nếu biết tất cả những biến đổi của thân tâm cảnh đều là khách, con người chứng kiến mọi biến đổi ấy, người không hình tướng luôn hiện diện vượt thời gian, không gian mới là con người chân thật, chúng ta đã có nơi nương tựa vững chắc đời đời. Khi ấy, ta mới thật sự hưởng một mùa xuân bất diệt, mới sống trọn vẹn trong Xuân thiền.

Cầu chúc tất cả chúng ta đều biết cách quay gót trở về quê nhà muôn thuở, vĩnh viễn an vui trong xuân thiền – bây giờ và mãi mãi.

(Thư Viện Hoa Sen: www.thuvienhoasen.org)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
Gần đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố áp dụng chính sách áp thuế 25% đối với ô tô nhập khẩu vào Mỹ, trước đó Trump cũng đã áp đặt biện pháp trừng phạt chung đối với Liên Âu, Canada, Mexico và Trung Quốc, nhưng lại tạm hoãn trong 30 ngày để cho Canada và Mexico thương thuyết. Các biện pháp bất nhất này gây nhiều hoang mang cho chính giới và doanh nghiệp các nước đối tác.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.