Hôm nay,  

Cha Con

23/06/200900:00:00(Xem: 10052)

CHA CON
Tranh mộc bản Võ Đình.


Trần thị LaiHồng
(Trích Giã Từ Võ Đình)


Tang lễ Giã Từ Võ Đình tổ chức vào Thứ Bảy ngày 6 tháng 6, 2009, tại All County Funeral Home, Lake Worth, West Palm Beach, Florida.
Tuy đơn giản nhưng đầy đủ nghi thức theo nghi lễ Phật giáo, có quý Đại đức Chùa Hương Hải Miami, và quý Sư cô Chùa Lộc Uyển West Palm Beach, tụng niệm.
Con gái út của người quá cố là Hannah Linh Giang Võ Đình đã có dịp nhắc nhở đến đấng sinh thành.  Linh Giang có tâm tính giống Cha, căn cơ, đơn giản đạm bạc, ăn chay trường hơn 20 năm nay, và cũng là một nghệ sĩ. Thỉnh thoảng làm thơ viết văn, nhưng sở thích chính là âm nhạc. Linh Giang hiện dạy nhạc tại một cơ sở âm nhạc vùng Frederick, Maryland.
Một số quý vị có thể không biết nhiều vế thân phụ tôi, nên tôi xin nói ngắn gọn về cuộc đời và những thành quả sáng tác ông để lại.  Không thể nói đến cha tôi mà không nhắc nhở về việc làm của Người, bởi đối với Người, cuộc đời và nghệ thuật đan kết chặt chẽ nhau.
Xin tóm lược chút tiểu sử:  Thân phụ tôi ra đời năm 1933 tại Huế, Việt Nam.  Những tác phẩm khắc gỗ - mộc bản - và tranh vẽ của ông từng được trưng bày khắp Á châu, Âu châu, Canada và Hoa Kỳ, với trên 50 cuộc triển lãm cá nhân.  Là một nhà văn, một dịch giả và minh họa, ông có trên 40 tác phẩm.  Thân phụ tôi và thân mẫu tôi cùng được giải Christopher Award về cuốn First Snow, bà viết và ông minh họa.  Ông còn được giải Literature Program Fellowship, của National Endowment for the Art.
Dầu thành công trong văn học nghệ thuật, thân phụ tôi chẳng bao giờ giàu và cũng chẳng bao giờ cố làm giàu.  Vừa đặt chân đến Mỹ, ông đặt cao giá trị tự do.  Ông biết rằng phóng theo đà ham lợi bừa bãi có thể ảnh hưởng nguy hại đến tinh thần nghệ thuật..  Trong thời chiến tranh Việt nam, phòng triển lãm của ông khuyên nên vẽ những đề tài chiều theo thị hiếu quần chúng đẻ dễ bán:  trẻ con vui chơi, phong cảnh thôn dã… vân vân.  Nhưng cha tôi đã hùng hổ tuyên bố quyền của ông là diễn tả thẳng thừng những tàn phá của cuộc chiến, vì ông biết rõ màu sắc đường nét hội họa của ông là phương tiện, là vũ khí, có thể gây chấn động, biến dạng và khích lệ được sự thay đổi.  Hậu quả là ông rời bỏ nơi hằng triển lãm lâu nay mặc dầu gia đình chúng tôi hồi đó hoàn toàn sống nhờ vào tiền tranh bán được tại đó. 
Đối với ông, vẽ là mục tiêu thiêng liêng ông hằng theo đuổi cần được bảo toàn, thoát hẳn những tác dụng nhơ bẩn thương mại vụ lợi cùng chế độ kiểm duyệt của chính quyền.
Chị tôi – Katherine Phượng Nam - và tôi may mắn trưởng thành trong lối sống đơn giản.  Bất cứ ai gặp cha tôi dẫu chỉ vài phút đều thấy rõ ông dị ứng với những kiểu xe cầu kỳ, nhà cao cửa rộng và những thứ vật dụng tân kỳ.  Ông thường nhắc nhở với chúng tôi lời Bà Nội: “ Tạo ra bao nhiêu thì phiền não bấy nhiêu.”  Khi cần thứ gì, ông tự tay làm lấy, nếu không làm được thì đối đế lắm phải chạy đi mua.  Có thứ gì hư hỏng, ông sửa lại hoặc chế thành thứ khác có thể dùng được. Trong lúc đó, ông không bủn xỉn; ông rất rộng lượng với bạn bè và gia đình, và ngay với số thu nhập bán tranh rất khiêm nhượng ông cũng vẫn thu vén gửi tiền về giúp gia đình ở Việt nam.
Cuộc sống lưu vong biệt xứ xa cha mẹ và quê hương là nguồn đau đớn thâm sâu trong đời ông.  Những kỷ niệm thời thơ ấu của tôi là hình ảnh cha tôi khóc nức nở trên những bức thư đến từ Việt nam, khi ông diễn dịch ra tiếng Anh cho chúng tôi thấu hiểu.
Cha tôi đã chịu đựng những thử thách giữa hai nền văn hóa Mỹ Việt, một đàng ráng bảo tồn thuần phong mỹ tục Việt Nam và một đàng phải nuôi dạy con cái mang hai dòng máu sinh trưởng trên đất Mỹ.  Đây là lãnh vực không hề có tiêu chuẩn ấn định, và để sống còn, như trong hội họa của ông, ông phải tự tạo thế giới riêng và ứng xử trong thê giới đó.  Ông lập riêng cấu trúc cuộc sống qua chương trình sinh hoạt hàng ngày, tự chế cách tập thể dục chẳng cần đồ thiết bị, ông tham thiền, tập yoga, vẽ suốt buổi xế chiều và buổi tối mải mê viết cho đến khuya lắc khuya lơ.
Nhưng nếu đầu óc cha tôi lơ lửng chín tầng mây, thì hai chân ông chôn chặt vào đất.  Ông đẵn gỗ, chặt củi, cắt cỏ, chăm sóc vườn rau, và nấu những bữa ăn với món Pháp hay Việt ngon lành.
Cha tôi lại thích những buổi họp mặt đại gia đình và là linh hồn của những buổi họp măt đó, liên miên kể chuyện bằng cả tiếng Anh rồi tiếng Pháp và tiếng Việt.  Ông kể nhiều chuyện lý thú, giải thích tỷ mỷ những liên hệ về lịch sử, nghệ thuật, văn học và cả triết lý, và thao thao bất tuyệt đọc những đoạn thơ tuôn từ trí nhớ.
Nhưng khi tàn cuộc họp, ánh đèn lần lượt tắt và mọi người ra về, cha tôi một mình lặng lẽ trong khu vườn vắng vẻ, uống chén trà dưới ánh trăng rằm dưới bầu trời nước Mỹ, tơ tưởng đến vầng trăng quê hương Việt nam.
 Từ những kỷ niệm, đó là hình ảnh tôi sẽ nhớ suốt đời về Người.


Caption: TRANH VO DINH.jpg
Tranh mộc bản Võ Đình.
Trần thị LaiHồng
(Trích Giã Từ Võ Đình)
Tang lễ Giã Từ Võ Đình tổ chức vào Thứ Bảy ngày 6 tháng 6, 2009, tại All County Funeral Home, Lake Worth, West Palm Beach, Florida.
Tuy đơn giản nhưng đầy đủ nghi thức theo nghi lễ Phật giáo, có quý Đại đức Chùa Hương Hải Miami, và quý Sư cô Chùa Lộc Uyển West Palm Beach, tụng niệm.
Con gái út của người quá cố là Hannah Linh Giang Võ Đình đã có dịp nhắc nhở đến đấng sinh thành.  Linh Giang có tâm tính giống Cha, căn cơ, đơn giản đạm bạc, ăn chay trường hơn 20 năm nay, và cũng là một nghệ sĩ. Thỉnh thoảng làm thơ viết văn, nhưng sở thích chính là âm nhạc. Linh Giang hiện dạy nhạc tại một cơ sở âm nhạc vùng Frederick, Maryland.
Một số quý vị có thể không biết nhiều vế thân phụ tôi, nên tôi xin nói ngắn gọn về cuộc đời và những thành quả sáng tác ông để lại.  Không thể nói đến cha tôi mà không nhắc nhở về việc làm của Người, bởi đối với Người, cuộc đời và nghệ thuật đan kết chặt chẽ nhau.
Xin tóm lược chút tiểu sử:  Thân phụ tôi ra đời năm 1933 tại Huế, Việt Nam.  Những tác phẩm khắc gỗ - mộc bản - và tranh vẽ của ông từng được trưng bày khắp Á châu, Âu châu, Canada và Hoa Kỳ, với trên 50 cuộc triển lãm cá nhân.  Là một nhà văn, một dịch giả và minh họa, ông có trên 40 tác phẩm.  Thân phụ tôi và thân mẫu tôi cùng được giải Christopher Award về cuốn First Snow, bà viết và ông minh họa.  Ông còn được giải Literature Program Fellowship, của National Endowment for the Art.
Dầu thành công trong văn học nghệ thuật, thân phụ tôi chẳng bao giờ giàu và cũng chẳng bao giờ cố làm giàu.  Vừa đặt chân đến Mỹ, ông đặt cao giá trị tự do.  Ông biết rằng phóng theo đà ham lợi bừa bãi có thể ảnh hưởng nguy hại đến tinh thần nghệ thuật..  Trong thời chiến tranh Việt nam, phòng triển lãm của ông khuyên nên vẽ những đề tài chiều theo thị hiếu quần chúng đẻ dễ bán:  trẻ con vui chơi, phong cảnh thôn dã… vân vân.  Nhưng cha tôi đã hùng hổ tuyên bố quyền của ông là diễn tả thẳng thừng những tàn phá của cuộc chiến, vì ông biết rõ màu sắc đường nét hội họa của ông là phương tiện, là vũ khí, có thể gây chấn động, biến dạng và khích lệ được sự thay đổi.  Hậu quả là ông rời bỏ nơi hằng triển lãm lâu nay mặc dầu gia đình chúng tôi hồi đó hoàn toàn sống nhờ vào tiền tranh bán được tại đó. 
Đối với ông, vẽ là mục tiêu thiêng liêng ông hằng theo đuổi cần được bảo toàn, thoát hẳn những tác dụng nhơ bẩn thương mại vụ lợi cùng chế độ kiểm duyệt của chính quyền.
Chị tôi – Katherine Phượng Nam - và tôi may mắn trưởng thành trong lối sống đơn giản.  Bất cứ ai gặp cha tôi dẫu chỉ vài phút đều thấy rõ ông dị ứng với những kiểu xe cầu kỳ, nhà cao cửa rộng và những thứ vật dụng tân kỳ.  Ông thường nhắc nhở với chúng tôi lời Bà Nội: “ Tạo ra bao nhiêu thì phiền não bấy nhiêu.”  Khi cần thứ gì, ông tự tay làm lấy, nếu không làm được thì đối đế lắm phải chạy đi mua.  Có thứ gì hư hỏng, ông sửa lại hoặc chế thành thứ khác có thể dùng được. Trong lúc đó, ông không bủn xỉn; ông rất rộng lượng với bạn bè và gia đình, và ngay với số thu nhập bán tranh rất khiêm nhượng ông cũng vẫn thu vén gửi tiền về giúp gia đình ở Việt nam.
Cuộc sống lưu vong biệt xứ xa cha mẹ và quê hương là nguồn đau đớn thâm sâu trong đời ông.  Những kỷ niệm thời thơ ấu của tôi là hình ảnh cha tôi khóc nức nở trên những bức thư đến từ Việt nam, khi ông diễn dịch ra tiếng Anh cho chúng tôi thấu hiểu.
Cha tôi đã chịu đựng những thử thách giữa hai nền văn hóa Mỹ Việt, một đàng ráng bảo tồn thuần phong mỹ tục Việt Nam và một đàng phải nuôi dạy con cái mang hai dòng máu sinh trưởng trên đất Mỹ.  Đây là lãnh vực không hề có tiêu chuẩn ấn định, và để sống còn, như trong hội họa của ông, ông phải tự tạo thế giới riêng và ứng xử trong thê giới đó.  Ông lập riêng cấu trúc cuộc sống qua chương trình sinh hoạt hàng ngày, tự chế cách tập thể dục chẳng cần đồ thiết bị, ông tham thiền, tập yoga, vẽ suốt buổi xế chiều và buổi tối mải mê viết cho đến khuya lắc khuya lơ.
Nhưng nếu đầu óc cha tôi lơ lửng chín tầng mây, thì hai chân ông chôn chặt vào đất.  Ông đẵn gỗ, chặt củi, cắt cỏ, chăm sóc vườn rau, và nấu những bữa ăn với món Pháp hay Việt ngon lành.
Cha tôi lại thích những buổi họp mặt đại gia đình và là linh hồn của những buổi họp măt đó, liên miên kể chuyện bằng cả tiếng Anh rồi tiếng Pháp và tiếng Việt.  Ông kể nhiều chuyện lý thú, giải thích tỷ mỷ những liên hệ về lịch sử, nghệ thuật, văn học và cả triết lý, và thao thao bất tuyệt đọc những đoạn thơ tuôn từ trí nhớ.
Nhưng khi tàn cuộc họp, ánh đèn lần lượt tắt và mọi người ra về, cha tôi một mình lặng lẽ trong khu vườn vắng vẻ, uống chén trà dưới ánh trăng rằm dưới bầu trời nước Mỹ, tơ tưởng đến vầng trăng quê hương Việt nam.
 Từ những kỷ niệm, đó là hình ảnh tôi sẽ nhớ suốt đời về Người.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chiến tranh Việt Nam có hai chiến trường: Đông Dương và Mỹ. Bắc Việt cố gắng kéo dài cuộc chiến trên chiến trường Việt Nam và đồng thời làm mệt mỏi công luận trên chiến trường Mỹ. Đứng trườc chiến lược này và kế thừa một di sản là sức mạnh quân sự, các tình trạng tổn thất và phản chiến đang gia tăng, Tổng thống Nixon cân nhắc mọi khả năng trong chính sách. Nixon quyết định chỉnh đốn các trận địa chiến cho miền Nam Việt Nam trong khi củng cố khả năng chiến đấu cho họ. Sự giảm bớt vai trò của chúng ta sẽ hỗ trợ cho công luận trong nước Mỹ. Trong thời gian này, Nixon cũng để cho Kissinger tổ chức mật đàm càng nhanh càng tốt.
Bất kỳ chiến lược nào để giảm bớt mối đe dọa từ các chính sách xâm lược của Trung Quốc phải dựa trên sự đánh giá thực tế về mức tác động đòn bẩy của Hoa Kỳ và của các cường quốc bên ngoài khác đối với sự tiến hóa bên trong nội bộ Trung Quốc. Ảnh hưởng của những thế lực bên ngoài đó có giới hạn về cấu trúc, bởi vì đảng sẽ không từ bỏ các hoạt động mà họ cho là quan trọng để duy trì sự kiểm soát. Nhưng chúng ta quả thực lại có những khí cụ quan trọng, những khí cụ này hoàn toàn nằm ngoài sức mạnh quân sự và chính sách thương mại. Điều ấy là những phẩm chất “Tự do của người Tây phương” mà người Trung Quốc coi là điểm yếu, thực sự là những sức mạnh. Tự do trao đổi thông tin, tự do trao đổi ý tưởng là một lợi thế cạnh tranh phi thường, một động cơ tuyệt vời của sự cách tân và thịnh vượng. (Một lý do mà Đài Loan được xem là mối đe dọa đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, chính là vì nó cung cấp một ví dụ với quy mô tuy nhỏ nhưng lại hùng hồn về sự thành công của hệ thống chính trị và kin
Nửa tháng trước hiệp định Genève (20-7-1954), trong cuộc họp tại Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Cộng), từ 3 đến 5-7-1954, thủ tướng Trung Cộng Châu Ân Lai khuyên Hồ Chí Minh (HCM) chôn giấu võ khí và cài cán bộ, đảng viên cộng sản (CS) ở lại Nam Việt Nam (NVN) sau khi đất nước bị chia hai để chuẩn bị tái chiến. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, Dương Danh Dy dịch, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt".) (Nguồn: Internet). Hồ Chí Minh đồng ý.
Đúng vậy, sau gần nửa thế kỷ năm nhìn lại vẫn thấy biến cố 30.04.1975 xảy ra quá bất ngờ đối với toàn thể dân VN chúng ta. Bằng chứng hiển nhiên là rất nhiều cấp lãnh đạo VNCH trong chánh quyền và trong quân đội không ngờ được nên đành phải bị bắt đi tù cải tạo cả hàng chục năm để rồi chết dần mòn trong rừng thiêng nước độc. Nói chi đến người dân bình thường thiếu thông tin của cả 2 miền Nam Bắc tất cả không ai cảm thấy hoặc đoán trước được chuyện sẽ xảy ra. Sự thực này chúng ta có thể đọc thấy rõ trên các tài liệu của 2 miền.
Chúng ta chỉ cần vài thập niên để có thể tạo dựng lại một nền kinh tế lành mạnh và hiệu quả nhưng e sẽ mất đến đôi ba thế hệ mới loại bỏ dần được những thói hư (và tật xấu) vừa nêu. Vấn đề không chỉ đòi hỏi thời gian mà còn cần đến sự nhẫn nại, bao dung, thông cảm (lẫn thương cảm) nữa. Nếu không thì dân tộc này vẫn sẽ tiếp tục bước hết từ bi kịch sang bi kịch khác – cho dù chế độ toàn trị và nguy cơ bị trị không còn.
Ôn dịch Vũ Hán gây nên một cơn khủng hoảng chưa từng thấy trong khối các nước nghèo khó khiến 100 quốc gia trong số 189 thành viên IMF hiện đang cầu cứu cơ quan quốc tế này viện trợ khẩn cấp. Tưởng cần nên tìm hiểu bối cảnh của những quốc gia đang phát triển song song với các phân tích về tác động của khủng hoảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã lộ rõ tâm địa chống dân chủ bằng mọi giá để kéo dài độc tài cai trị, làm giầu bất chính trên lưng người dân nhưng lại ngoan ngoãn cúi đầu trước hành động cướp đất, chiếm Biển Đông của Trung Cộng. Những việc này, tuy không mới, nhưng đã bung ra vào lúc đảng ra sức vận động cán bộ, đảng viên, kể cả cựu lãnh đạo và cựu chiến binh đóng góp ý kiến vào các Dự thảo văn kiện đảng XIII để khoe khoang.
Đại dịch Vũ Hán đang tàn phá Trung Hoa Lục Địa và toàn thể nhân loại. Tuy thế, tai họa này vẫn không giảm thiểu tham vọng bá quyền xâm lược của đảng CSTQ đối với Việt Nam qua các hoạt động tập trận, xâm phạm lãnh hải và vùng kinh tế cũng như hiếp đáp gây thiệt hại cho ngư dân Việt Nam.
Tôi (trộm) nghe nói rằng quân tử ba ngày mà không đọc sách thì diện mạo dơ dáng, và trò chuyện khó nghe. Tôi vốn bẩm sinh mặt mũi không mấy dễ coi, và chuyện trò vô cùng nhạt nhẽo nên (lắm khi) đến vài ba năm cũng chả nhìn đến một cuốn sách nào mà vẫn cứ sống phây phây – chả có (trăng) sao gì ráo trọi.
Sau ngày 30-4-1975 Bắc Việt Nam (NVN) chủ trương tiêu diệt triệt để tiềm lực NVN về nhân lực, về kinh tế và về văn hóa nhằm củng cố việc cưỡng chiếm Nam Việt Nam (NVN) và chận đứng Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) có thể hồi sinh ở NVN.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.