Hôm nay,  

Quán Thế Âm

15/08/200900:00:00(Xem: 7601)

QUÁN THẾ ÂM
GS Phạm Công Thiện
(Bài giảng của Phạm Công Thiện tại Thiền tu viện Viên Thông ở Bellflower, California, Mỹ quốc vào ngày vía Quán Thế Âm, Chủ Nhật 09/08/2009.)
Dường như do sự tình cờ ngẫu nhiên mà tất cả chúng ta đều đang có mặt ngay giây phút này ngày hôm nay tại chùa Viên Thông vào ngày vía Đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
Quán Thế Âm Bồ Tát còn được gọi là Viên Thông Đại Sĩ.
Thực sự trong Đạo Phật không có gì gọi là "tình cờ ngẫu nhiên", vì tất cả đều xảy ra đúng "thời tiết nhân duyên" thích ứng: cái gì đang xảy ra trước mắt ta mà ta có thể cảm thấy được như thế này hay như thế kia đều do nghiệp tốt hay nghiệp xấu của mình, nhưng thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ý nghiệp của mình đều có thể thay đổi và chuyển hóa một cách thanh lương, thanh tịnh, sạch sẽ, sáng sủa, sáng suốt và sáng rực ngay tại đây và ngay giây phút hiện tại hay bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào.
Làm thế nào" Quy y Tam Bảo, sám hối nghiệp chướng, tôn thờ những bậc Thầy của mình, phát Bồ Đề Tâm, niệm Phật, nhất tâm niệm Phật, nhất tâm niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, thực hành lục Ba La Mật, tu hành Tứ Vô Lượng Tâm và hồi hướng tất cả công đức cho Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nói thì dễ và làm mới khó.
Đó là nói theo người đời thế tục.
Trong Đạo Phật, làm thì rất dễ, vì lúc nào chúng ta cũng làm, được làm hay bị làm; lúc nào chúng ta cũng đang tạo nghiệp, quá nhiều nghiệp đến nỗi phải bị trôi lăn chìm nổi, và cả đời chúng ta chỉ là ba chìm bảy nổi chín lênh đênh.
Muốn thoát khỏi cái ba chìm thì có ba cái "bảo bối gia truyền", đó là Phật, Pháp, Tăng. Bảy cái nổi ấy chính là "thất giác chi hay thất Bồ Đề Phần" (niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác chi, khinh an giác chi, định giác chi, và xả giác chi). Cả cuộc đời chúng ta và cả cái chết của chúng ta, bao nhiêu kiếp sống và chết, và chết rồi sống lại; tất cả, tất cả đều là chín lênh đênh. Trong Đạo Phật có cách tu hành để cho hết chín cái lênh đênh, đó là chín cái thiền định rất có trật tự, theo thứ tự rất nghiêm mật, và liên tục nhất tâm, liên tục chuyên nhất và vô cùng sắc bén sáng sạch, đó là cửu thứ đệ định (sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, không xứ định, thức xứ định, vô hữu xứ định, phi tưởng phi phi tưởng xứ định, và diệt thọ tưởng định).
Làm thì rất dễ và quá dễ, nhưng nói thì vô cùng khó khăn, làm sao nói mà mỗi một lời nói làm sáng sạch thơm tho không khí, mỗi một lời nói là sấm chớp chẻ tan sự hận thù, ghen ghét, đố kỵ, tham lam, ngu si, kiêu ngạo, tà kiến, sợ hãi, sợ sệt, sợ người, sợ đời, sợ ma, sợ quỷ, sợ thua, sợ mất, sợ chết, sợ sống, sợ khổ, sợ già, sợ bệnh, sợ tiếng xấu, sợ bị chửi mắng, sợ bóng sợ gió, sợ mất đất đứng, sợ què chân, sợ đui, sợ té, sợ ba chìm bảy nổi chín lênh đênh.
Nói rất khó, vì làm sao nói mà không tự nói xấu hay nói xấu người khác; làm sao nói mà không kín đáo tự khen mình và gián tiếp chê người khác; làm sao nói mà không tự trách mình hay trách cứ người khác; làm sao nói mà không tự biện minh hay tự bảo vệ tự đề phòng; làm sao nói mà mỗi một lời nói làm người khác cảm thấy vui vẻ, vui sướng và vui lòng; làm sao nói mà không vọng ngữ, không ác ngữ, không ỷ ngữ và không lưỡng thiệt ngữ"
Làm sao nói mà ban cho sự không sợ hãi (vô úy thí)"
Làm sao nói mà tất cả ai nghe đều thoát khỏi tất cả sự khổ, và tất cả đều được giải thoát, được dứt hết tất cả lênh đênh, được Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, và Đại Xả.
Làm sao nói mà mỗi một âm thanh đều là chân ngôn, mật ngôn, minh chú, thần chú"
Đức Quán Thế Âm Bồ Tát đã dạy Lục Tự Đại Thần Chú cho toàn thể chúng sinh tự bao giờ cho đến bây giờ, hiện tại ở đây. Đây cũng gọi là Lục Tự Đại Minh Thần Chú, Lục Tự Đà La Ni:
OM MANI PADMÉ HUM
Hay ÁN MA NI BÁT DI HỒNG
Chúng ta đều bị ba chìm bảy nổi chín lênh đênh trong bao nhiêu cõi trời, cõi a tu la, cõi người, cõi súc sanh, cõi ngạ quỷ, cõi địa ngục. Chỉ có Lục Tự Đại Minh Chú của Đức Quán Thế Âm mới đóng hết tất cả sáu đường sanh tử:
OM (ÁN) đóng cửa thiên đạo;
MA (MA) đóng cửa tu la đạo;
NI (NI) đóng cửa nhân đạo;
PAD (BÁT) đóng cửa súc sanh đạo;
MÉ (DI) đóng cửa ngạ quỷ đạo;
HUM (HỒNG) đóng cửa địa ngục đạo.
Làm sao nói mà lúc nào cũng nói OM MANI PADMÉ HUM, dù nói thầm trong đầu, nói thầm trong lòng, nói nhỏ tiếng hay nói lớn tiếng, nói chậm rãi, nói thoải mái, nói nhẹ nhàng, nói thong dong, nói thong thả, nói dịu hiền, dịu dàng, dịu ngọt, dìu dặt và đùm bọc ...
Làm sao thức và ngủ, chiêm bao và không chiêm bao, lúc nào cũng là OM MANI PADMÉ HUM. Làm sao đi và đứng, ngồi và nằm đều là OM MANI PADMÉ HUM, là sao ăn uống hay nhịn đói, nóng, lạnh, mưa gió, bão táp, dông tố, động đất, vợ bỏ, chồng bỏ, phá sản sạt nghiệp, tất cả đều là tha ma, tận thế, sụp đổ, tàn phế, tàn tạ, tan rã, tan vỡ, tang tóc, thê lương mà miệng và lòng vẫn nói OM MANI PADMÉ HUM"
Làm sao thở ra và thở vô, mỗi hơi thở đều là OM MANI PADMÉ HUM. Đây là thở ra Đại Bi và thở vào Đại Bi, sống Đại Bi và chết Đại Bi, nói Đại Bi và im lặng cũng Đại Bi.
Đại Bi là gì" Mỗi tế bào, mỗi lỗ chân lông đều phập phồng Đại Bi, nhất cử nhất động đều phập phồng phất phới Quán Thế Âm Bồ Tát, thênh thang phe phẩy ÁN MA NI BÁT DI HỒNG.
Muốn vãng sanh Cực Lạc chỉ cần nói OM MANI PADMÉ HUM với Liên Hoa Thủ Bồ Tát (Padmapàni). Trong tạng Ma ni già bộ bà (Mani bkah hbum) đã dạy rằng ai xướng lên chỉ một lần OM MANI PADMÉ HUM thì đoạn dứt đường lưu chuyển trong sáu cõi luân hồi.
Sáu mươi bốn sự trong sạch lặng lẽ trong sáng của âm thanh chư Phật đều được thu nhiếp trọn vẹn trong lục tự OM MANI PADMÉ HUM. Có cần nhắc lại lục thập tứ chủng Phạm âm:
1. Lưu trạch thanh (tràn thấm lưu loát, mượt mà, nhuần hết tất cả chúng sanh)
2. Nhu nhuyễn thanh (dịu dàng, mềm mại, nhu nhuyễn)
3. Duyệt ý thanh (làm vui sướng, vừa ý, thư thái lòng dạ)
4. Khả lạc thanh (đáng thích thú, vui sướng, mầu nhiệm)
5. Thanh tịnh thanh (sạch sáng, lóng sạch, không nhiễm tạp)
6. Ly cấu thanh (không còn dơ, không cấu, không nhiễm)
7. Minh lượng thanh (rõ ràng, minh bạch, sáng trong, trong trẻo)
8. Cam mỹ thanh (lắng nghe được pháp hỷ ngọt dịu)
9. Nhạc văn thanh (làm cho thích nghe không chán)
10. Vô liệt thanh (không liệt kém, không thều thào, thoi thóp)
11. Viên cụ thanh (một âm là tất cả âm, một thanh là tất cả thanh, mỗi âm thanh đều nói lên sự im lặng thanh thoát kỳ diệu)
12. Điều thuận thanh (điều phục tùy thuận chúng sanh)
13. Vô sáp thanh (điều hòa, thuận tai, không thô)
14. Vô ác thanh (không xấu, ác)
15. Thiện nhu thanh (không thô bạo, nhu hòa, hiền lành)
16. Duyệt nhĩ thanh (làm vui lòng, nghe không chán)
17. Thích thân thanh (cảm thấy nhẹ nhàng, khoan khoái)
18. Tâm sanh dũng nhuệ thanh (phát dũng chí tinh tiến tu hành)
19. Tâm hỷ thanh (sanh tâm vui mừng, vui sướng, vui vẻ, vui tươi)
20. Duyệt lạc thanh (sanh lòng vui vẻ, an lạc)
21. Vô nhiệt não thanh (không bị nóng đầu, nóng mặt, nóng người, nóng lòng, nóng giận, được thanh thoát, mát mẻ)
22. Như giáo lệnh thanh (như mệnh lệnh giáo giới của Phật Pháp, khiến tín tâm thanh tịnh)


23. Thiện liễu tri thanh (thông đạt diệu pháp)
24. Phân minh thanh (sáng rõ như thực, như lý)
25. Thuận ái thanh (làm cho thương quý, yêu thích thiện pháp)
26. Linh sanh hoan hỷ thanh (khiến lòng người hoan hỷ)
27. Sử tha như giáo lệnh thanh (khiến cho người nghe xong lại khai mở cho người khác)
28. Linh tha thiện liễu tri thanh (khiến cho người nghe hiểu thông tất cả pháp)
29. Như lý thanh (khế hợp chân như, chân lý)
30. Lợi ích thanh (lợi ích cho tất cả chúng sanh)
31. Ly trùng phục (phức) quá thất thanh (khế hợp lý thú, không có trùng lặp từ đầu đến cuối)
32. Như sư tử thanh (như tiếng rống sư tử, làm cho loài ác thú khác đều sợ hãi ác nghiệp, tỉnh ngộ để quy y Tam Bảo)
33. Như long âm thanh (như tiếng rồng)
34. Như vân lôi hống thanh (xa gần đều nghe, như tiếng sấm nổ)
35. Như long vương thanh (như tiếng vua rồng, trong trẻo vọng vang xa xôi)
36. Như Khẩn Na La diệu ca thanh (tuyệt vời như âm thanh của ca thần, làm cho chúng sinh đều thích nghe vui sướng)
37. Như Ca Lăng Tần Già thanh (tuyệt vời như tiếng chim Ca Lăng Tần Già)
38. Như Phạm Vương thanh (thanh tịnh như âm Phạm Vương)
39. Như Cộng Mạng điểu thanh (an lành như tiếng hót chim Cộng Mạng)
40. Như Đế Thích mỹ diệu thanh (tuyệt mỹ diệu huyền như âm trời Đế Thích)
41. Như chấn cổ thanh (vang dội xa gần như tiếng trống Bát Nhã)
42. Bất cao thanh (tròn đầy khế hợp trung đạo)
43. Bất hạ thanh (viên âm trung đạo bát bất)
44. Tùy nhập nhất thiết âm thanh (bao hàm dung thông tất cả âm thanh)
45. Vô khuyết giảm thanh (viên mãn, không khuyết)
46. Vô phá hoại thanh (không thể phá hoại)
47. Vô nhiễm ô thanh (xa lìa phiền não, không trước nhiễm)
48. Vô hy thủ thanh (lợi lạc cho chúng sanh, không hề mong cầu)
49. Cụ túc thanh (diệu lý xứng tánh trọn vẹn đầy đủ)
50. Trang nghiêm thanh (đoan trang nghiêm túc, đủ công việc diệu hạnh)
51. Hiển thị thanh (khai thị hiển hiện diệu pháp)
52. Viên mãn nhất thiết âm thanh (hoàn bị đầy đủ tất cả âm thanh)
53. Chư căn thích duyệt thanh (các căn đều vui sướng, vui thích)
54. Vô cơ hủy thanh (không chê bai hủy báng chúng sanh)
55. Vô khinh chuyển thanh (bao trùm, chắc thật, không dời đổi)
56. Vô động dao thanh (không sợ sệt, không có thiên ma ngoại đạo nào lay động)
57. Tùy nhập nhất thiết chúng hội thanh (trùm khắp chúng hội, tùy căn cơ đều hiểu được)
58. Chư tướng cụ túc thanh (đầy đủ các tướng)
59. Linh chúng sanh tâm ý hoan hỷ thanh (khiến cho chúng sinh được lòng hoan hỷ)
60. Thuyết chúng sanh tâm hành thanh (84,000 loại tâm hành của vô lượng chúng sanh căn tánh hạ liệt đều ngộ nhập)
61. Nhập chúng sanh tâm hỷ thanh (khế nhập tâm ý chúng sanh)
62. Tùy chúng sanh tín giải thanh (làm cho sự tin hiểu của chúng sanh đều được lợi ích thanh tịnh)
63. Văn giả vô phân lượng thanh (trời, người, ma vương, Phạm thiên, sa môn, bà la môn ở khắp nơi, tuy nghe được mà không thể biết hết trọn vẹn)
64. Chúng sanh bất năng tư duy xứng lượng thanh (không thể tư duy lường tính được)
Tất cả lục thập tứ chủng Phạm âm có thể được đúc kết lại trong mấy câu kệ bất hủ trong Phẩm Phổ Môn của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa:
Diệu âm Quán Thế Âm
Phạm âm Hải Triều Ân
Thắng bỉ thế gian âm
Thị cố tu thường niệm
*
Diệu âm Quán Thế Âm
Phạm âm Hải Triều Âm
Thắng hết thế gian âm
Vậy nên thường phải niệm
(Hòa Thượng Thích Trí Thủ dịch,
Toàn tập Tâm Như Trí Thủ, tr. 299)

Nhĩ căn và âm thanh có liên hệ mật thiết bí mật toàn diện với Đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Chúng ta chỉ cần tụng mười sáu câu kệ bất diệt trong kinh Thủ Lăng Nghiêm (từ sơ ư văn trung đến thập phương viên minh...)
Sáu âm thanh bí ẩn huyền diệu OM MANI PADMÉ HUM đã được bao nhiêu triệu tỷ người xung tụng thường niệm bao nhiêu tỷ lần từ đỉnh núi Hy Mã Lạp Sơn cho đến tất cả đồng bằng thung lũng khắp trái đất.
Chẳng những thường niệm, nhất tâm xưng hô Lục Tự Đại Minh Chú, hành giả còn có thể quán tưởng, quán tượng và quán sắc của Lục Tự Đại Minh Chú:
OM là màu trắng; thiên
MA là màu xanh lá cây; a tu la
NI là màu vàng; nhân loại
PAD là màu xanh da trời, xanh nhạt nhẹ; súc sinh
MÉ là màu đỏ; ngạ quỷ
HUM là màu đen; địa ngục

Chủng tự của Phật A Di Đà và Đức Quán Thế Âm là HRI thì màu trắng trong OM MANI PADMÉ HUM HRI và ngay trong chủng tự (bìja, seed-syllable) HRI theo chữ Tây Tạng gồm có 6 thành phần thì hành giả Tây Tạng có thể quán năm màu từ trên xướng dưới: xanh dương, trắng, vàng, đỏ, xanh lá cây và lại xanh lá cây; từ Pháp Giới Trí (Tỳ Lô Giá Na) đến Đại Viên Cảnh Trí (Phật A Súc), Bình Đẳng Tánh Trí (Bảo Sanh Phật), Diệu Quan Sát Trí (A Di Đà Phật) và Thành Sở Tác Trí (Bất Không Thành Tựu Như Lai).
Xanh - Dharmadhatu (Vairocana)
Trắng - Akasobhya
Vàng - Ratnasambhava
Đỏ - Amitabha
Xanh lá cây - Amoghasiddhi
Xanh lá cây - Amoghasiddhi
Chúng ta cũng có thể hiểu:
OM là Pháp thân của tất cả chư Phật, mọi thần chú đều bắt đầu bằng OM
MANI là Ngọc Mani Như Ý
PADMÉ là bông sen
HUM là Tâm của tất cả chư Phật và chấm dứt mọi chân ngôn
*
OM làm sạch chướng cái của Thân
MA lọc sạch Khẩu
NI làm sạch Ý
PAD làm sạch phiền não chướng
MÉ làm sạch tập khí huân tập
HUM làm sạch sở tri chướng
*
OM là cầu nguyện xưng tán Thân chư Phật
MA là cầu nguyện lễ kính xưng tán Khẩu chư Phật
NI là cầu nguyện xưng tán lễ kính Tâm chư Phật
PAD là cầu nguyện xưng tán lễ kính Hạnh chư Phật
MÉ là xưng tán sở hành Diệu Phương Tiện của chư Phật
HUM thu nhiếp tất cả uy thần gia trì của Thân, Khẩu, Ý, Hạnh, Hành của tất cả chư Phật.
*
OM là bố thí ba la mật
MA là trì giới ba la mật
NI là nhẫn nhục ba la mật
PAD là tinh tiến ba la mật
MÉ là thiền định ba la mật
HUM là Bát Nhã ba la mật
*
OM là Bảo Sinh Như Lai (Ratnasambhava Tathagata)
MA là Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi Tathagata)
NI là Kim Cương Trì Như Lai
Kim Cương Thủ Như Lai - Vajradhara
Kim Cương Chấp Như Lai - (Phạ nhật la đà la)
Thủ Trì Kim Cương Như Lai
PAD là Tỳ Lô Giá Na (Vairocana)
MÉ là Phật A Di Đà (Amitabha)
HUM là A Súc Bệ Phật (Akshobya)
*
OM là bình đẳng tánh trí
MA là thành sở tác trí
NI là tự nhiên trí
PAD là pháp giới trí
MÉ là diệu quan sát trí
HUM là đại viên cảnh trí
Bồ Tát Thánh Tăng Tây Tạng Patrul Rimpoché đã từng dạy cho tất cả bao nhiêu thế hệ sư phụ ở Hy Mã Lạp Sơn:
"Quán Thế Âm là hiện thân của tất cả chư Phật;
Một thần chú (mantra), Lục Tự Đại Minh Chú, OM MANI PADMÉ HUM là thể hiện tất cả chân ngôn thần chú;
Một Pháp, Bồ Đề Tâm, Lòng Bồ Đề (Bodhicitta) là thực hiện tất cả sự thực hành tu chứng của giai đoạn khởi phát và thành tựu của giáo pháp Kim Cang Thừa;
Biết được một cái thì giải thoát tất cả, thế thì hãy trì tụng OM MANI PADMÉ HUM."
Tất cả Phật Pháp đều bắt đầu bằng Quy Y Tam Bảo và Phát Bồ Đề Tâm và kết thúc bằng Hồi Hướng Công Đức cho Nhất Thiết Chủng Trí.
Xin kính cẩn cảm tạ Thượng Tọa Thông Niệm, Viện chủ Chùa Viên Thông đã có lòng mở rộng ra để cho chúng ta được nghe Lục Tự Đại Minh Chú của Quán Thế Âm ngày hôm nay.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
NAM MÔ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
NAM MÔ ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT
OM MANI PADMÉ HUM
OM MANI PADMÉ HUM
OM MANI PADMÉ HUM
Phạm Công Thiện

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.