Hôm nay,  

Triển Vọng 2010

07/01/201000:00:00(Xem: 9223)

Triển Vọng 2010

Nguyễn Xuân Nghĩa & Việt Long, RFA

...lãnh đạo Việt Nam còn tụt lùi khi lập ra các tổng công ty...

Năm 2010 đang mở ra với nhiều triển vọng kinh tế khả quan hơn năm 2009 vừa kết thúc. Tuy nhiên, tình hình mỗi nơi lại mỗi khác. Riêng tại Đông Nam Á, các quốc trong khu vực sẽ còn gặp nhiều thách đố nghiêm trọng, kể cả và nhất là trường hợp Việt Nam. Trong chương trình đầu tiên của năm mới, Diễn đàn Kinh tế đài RFA sẽ tìm hiểu về hoàn cảnh tranh tối tranh sáng đó. Cuộc trao đổi với nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa sẽ do Việt Long thực hiện sau đây....
Việt Long: Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Chúng ta vừa vượt qua một năm mà ông đã gọi là "hú vía" vì không bị tổng khủng hoảng kinh tế mà chỉ bị suy trầm toàn cầu. Qua năm mới, tình hình có vẻ khả quan hơn dù là việc phục hồi vẫn còn nhiều bất trắc ở một số khu vực. Riêng với Việt Nam, thống kê mới nhất cho thấy tốc độ tăng trưởng của quý bốn đã lên tới 6,9% so với năm ngoái và bình quân toàn năm có thể là hơn 5%, tức là cũng không đến nỗi tệ. Như vậy, triển vọng 2010 có đáng cho chúng ta lạc quan hơn không"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Chúng ta sẽ nói về viễn ảnh chung trước khi đề cập tới hy vọng và thách đố cho các nước Đông Nam Á và của riêng Việt Nam.
- Trước hết, hầu hết các nhà kinh tế đều đồng ý rằng năm 2009 là năm suy trầm toàn cầu, xuất phát từ những biến động tài chính bùng nổ tại Hoa Kỳ vào năm 2008. Vì kinh tế Hoa Kỳ suy trầm từ cuối năm 2007 nên Mỹ đã tuột dốc trước tiên nhưng cũng đụng đáy sớm nhất, kể từ giữa năm ngoái và đã bắt đầu hồi phục dù không mạnh. Những chỉ dấu tiên báo ngày càng nhiều hơn cho thấy là Mỹ đang ra khỏi nạn suy trầm. Chỉ dấu tiên báo là dữ kiện cho thấy trước tình hình tương lai.
- Một chỉ dấu rõ rệt nhất là thị trường chứng khoán với chỉ số tiêu biểu là Standard and Poor's 500 đã tăng 50% kể từ dưới đáy vào tháng Ba - từ dưới 700 điểm nay đã lên tới hơn ngàn mốt. Một số chỉ dấu tiên báo khác như hàng bán lẻ và tồn kho hay hóa đơn đặt hàng cũng đều báo hiệu điều ấy. Một chỉ dấu thuộc loại hậu kiểm tức là xác nhận điều tiên báo là số người khai báo thất nghiệp lần đầu cũng bắt đầu giảm. Trên cơ sở đó, người ta dự đoán là kinh tế Mỹ sẽ hồi phục năm nay. Điều bất trắc còn lại là tâm lý thị trường, khi ngân hàng chưa dám cho vay và giới tiêu thụ chưa dám đi vay. Vì vậy, sự hồi phục tại Hoa Kỳ đã có, sẽ còn yếu ớt nhưng vẫn là khá hơn các nước công nghiệp khác.
Việt Long: Như vậy thì nếu cho rằng nguyên do hay thủ phạm là kinh tế Hoa Kỳ thì nền kinh tế này đang vươn dậy" Còn các khối kinh tế công nghiệp khác thì lại không được như thế"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa Hoa Kỳ bị khủng hoảng tài chính giữa cơn suy trầm nên tất nhiên gây hậu quả cho xứ khác. Nhưng các xứ khác cũng có vấn đề nội tại bên trong và bị chấn động chậm hơn nên chưa có hy vọng đụng đáy và hồi phục nhanh như Mỹ. Trường hợp điển hình là khối kinh tế Ấu Châu, vì sẽ chật vật hơn và thất nghiệp tại đây còn tăng khi đã bắt đầu giảm tại Mỹ. Riêng một vài quốc gia Âu châu thì còn chưa ra khỏi bão. Đó là các nước miền Nam như Italy hay Tây Ban Nha, miền Bắc như Ireland và Latvia, ở miền Đông như Romania và Hungary. Sáu nước này còn bị sóng gió vì mắc nợ cao và phải thắt lưng buộc bụng, cần được Liên hiệp Âu châu và Ngân hàng Trung ương Âu châu cấp cứu. Biện pháp tăng chi để kích cầu sẽ khiến họ phải trả giá rất đắt sau này. Các nước đó hy vọng là kinh tế Mỹ mà hồi phục thì sẽ kéo họ ra khỏi hố sâu, nhưng điều ấy hơi khó vì tình trạng bấp bênh tại Mỹ, nên bất ổn xã hội sẽ là viễn ảnh năm nay của mấy xứ này.
- Nói chung, Âu châu có một sai lầm lớn là chỉ đổ lỗi cho Hoa Kỳ mà không rà lại bản thân với những nhược điểm riêng của họ, nhất là sổ sách tài sản của hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng Âu châu có vấn đề trầm trọng hơn hệ thống ngân hàng Mỹ mà đến nay vẫn chưa kiện toàn chấn chỉnh. Thí dụ như có khoảng hơn ngàn tỷ Euro tài sản, tương đương với một ngàn 400 tỷ đô la Mỹ, là loại bất trắc mà mới phân nửa là được kiểm tra và xác định là bị lỗ. Tức là Âu châu còn một hố sâu đến hơn 700 tỷ đô la trước mắt, cho nên năm nay sẽ còn bị một đợt sóng dữ dập vào hệ thống ngân hàng và gây hậu quả tai hại cho trị giá đồng Euro.
Việt Long: Còn đầu máy thứ ba là Nhật Bản thì e chừng như vẫn còn nằm ỳ tại chỗ, có phải như vậy không"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Nhật Bản coi như mất đứt hai chục năm kể từ vụ bể bóng đầu tư năm 1990 và cho đến nay vẫn chưa hồi phục. Riêng năm nay thì sẽ có tăng trưởng rất thấp, chỉ dưới 1%, và với cái giá là lại phải tăng chi ngân sách để bơm tiền vào kinh tế. Kết quả là Nhật mắc nợ nhiều nhất thế giới, quốc trái của Nhật đã vượt quá 200% của Tổng sản lượng GDP, là điều chưa từng thấy bao giờ tại bất cứ xứ nào, tính theo tương đối hay tuyệt đối. Trong hoàn cảnh đó, các nước thế giới vẫn khó trông cậy vào đầu máy này.
Việt Long: Thành ra, có phải là phục hồi mạnh nhất năm nay chính là các nền kinh tế Á châu"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa vâng, các nền kinh tế đang phát triển đều bậy dậy mạnh hơn cả, với bình quân có thể là 6,5%. Trong nhóm này, Á châu ngoài Nhật có đà tăng trưởng mạnh nhất, dẫn đầu là Trung Quốc với 10%, Ấn Độ với 8%, Indonesia đạt 6,5% và Nam Hàn chừng 6%. Việt Nam ở mức trung bình trong nhóm này. Tuy nhiên, và đây là vấn đề đang quan tâm trong năm nay, Trung Quốc đạt mức tăng trưởng cao nhất nhưng bằng biện pháp giả tạo nên sẽ phải trả giá sau này. Ba nước Ấn Độ, Indonesia và Hàn Quốc bị ảnh hưởng suy trầm nhẹ nhất và có nền móng lành mạnh hơn nên sẽ ổn định hơn trong tương lai.


- Trường hợp Trung Quốc sở dĩ đáng chú ý là xứ này lệ thuộc nhiều vào xuất khẩu. Khi các thị trường xuất khẩu đều co cụm mà họ vẫn đạt mức tăng trưởng cao vào năm ngoái thì đến 95% động lực tăng trưởng là do lượng đầu tư bằng tăng chi và gần một ngàn tỷ rưỡi đô la là tín dụng trong đó có rất nhiều khoản vay bất trắc. Vì vậy, xứ này sẽ bị nguy cơ khủng hoảng ngân hàng vì nợ xấu, bị nguy cơ bong bóng đầu tư vì tiền bơm vào chỗ trũng. Qua năm 2010 này, khi các nền kinh tế công nghiệp hóa còn èo uột và thị trường xuất khẩu chưa đủ mạnh mà Trung Quốc vẫn muốn đạt mức tăng trưởng cao thì họ phải nghĩ đến giải pháp khác.
Việt Long: Và giải pháp ấy là tìm các thị trường khác, có phải không"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ rằng năm nay, Trung Quốc sẽ mở chiến dịch chinh phục và khuynh đảo các nền kinh tế Đông Nam Á. Đã vậy, các quốc gia trong khu vực này cũng muốn xuất cảng nhiều hơn. Vấn đề chính trong năm nay vì vậy sẽ là tìm ra thị trường xuất khẩu khi mà thị trường lớn nhất là Hoa Kỳ còn èo ruột và giới tiêu thụ Mỹ còn ngần ngại.
- Yêu cầu xuất khẩu ấy từ các nước Á châu xưa nay vẫn lấy ngoại thương làm lực đẩy có thể dẫn đến hai chuyện. Xứ nào cũng ráo riết sản xuất và cạnh tranh với nhau để bán ra ngoài, hàng họ sẽ giảm giá đáng kể và hy vọng đẩy lui nguy cơ lạm phát tại các nước có chế độ ngoại hối linh động. Thứ hai là vì thị trường xuất khẩu còn hạn chế, nên Á châu sẽ không có tốc độ tăng trưởng cao như người ta trông đợi. Tình hình 2010 vì vậy có khả quan hơn mà chưa hẳn là rực rỡ và rủi ro tranh chấp về mậu dịch sẽ gia tăng, nhất là với Trung Quốc và Âu châu.
Việt Long: Vấn đề ấy đưa chúng ta trở lại một chuyện nhiều lần được đề cập tới. Đó là các nước Á châu sẽ phải nghĩ tới thị trường nội địa của mình thay vì cứ quá chú trọng và bị lệ thuộc vào xuất khẩu.
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa đúng như vậy về nguyên tắc nhưng thực tế thì cũng còn tùy vào hoàn cảnh từng nước. Như Singapore là quốc gia nhỏ xíu nên phải là một trung tâm thương mại trong luồng giao dịch quốc tế và lệ thuộc vào xuất khẩu. Tỷ trọng xuất khẩu xứ này lên tới 185% Tổng sản lượng GDP nên khi các thị trường quốc tế bị co cụm, họ bị suy trầm nặng nhất và biết vậy mà cũng khó phát triển thi trường nội địa quá ít dân của mình.
- Ngược lại, Indonesia với hơn 200 triệu dân lại có tỷ trọng xuất khẩu thấp nhất, chỉ bằng 27% GDP, nên bị hiệu ứng suy trầm nhẹ nhất. Ở giữa hoàn cảnh của hai xứ đó có Malaysia, Việt Nam và Thái Lan hiện vẫn lệ thuộc quá nặng vào thị trường quốc tế, từ 90% của Malaysia, đến 70% của Việt Nam và 64% của Thái, mà lại đủ đông dân ở nhà thì quả là họ nên cải cách để mở rộng thị trường nội địa. Dù thì trường này có mức tăng trưởng thấp hơn thì cũng vẫn ổn định hơn và ít bị hiệu ứng quốc tế dội vào. Nhưng đấy là một việc khó thực hiện, nhất là cho trường hợp Việt Nam vốn đã quá lạc quan trông đợi vào viễn ảnh hội nhập với thế giới sau khi là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới từ đầu năm 2007.
Việt Long: Chúng ta kết thúc chương trình với trường hợp Việt Nam. Quốc gia này có 86 triệu dân, có một số nguyên nhiên vật liệu cần thiết cho sản xuất nên vì sao lại chưa thể phát triển được một thị trường nội địa mạnh hơn"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tất cả là ở cái đầu và phân tích chuyện Việt Nam tôi cứ e là mình trở thành lẩn thẩn vì đã nói đi nói lại nhiều về cùng một loạt vấn đề.
- Thứ nhất là cái đầu hướng ngoại nên cứ cho rằng sự thịnh vượng đến từ việc buôn bán với bên ngoài và ai có quyền mà ngồi canh cửa để trưng thu trên việc buôn bán đó thì làm giàu lẹ nhất. Họ không nghĩ đến đa số dân chúng bên trong và đây là điều đáng tiếc, cũng đáng xấu hổ nữa. Cả hệ thống giáo dục Việt Nam cũng thế, bị khủng hoảng vì không thiết thực nhìn vào nhu cầu của người dân, rồi đào tạo một lớp người chỉ biết làm gia công cho thiên hạ, tưởng đó là tiến bộ.
- Thứ hai, muốn phát triển thị trường nội địa thì phải cải thiện hạ tầng chuyển vận và phân phối bên trong, là điều được quốc tế và các nước viện trợ khuyến cáo từ cả chục năm nay mà không kết quả. Cũng trong loại hạ tầng ấy, nên nghĩ đến cải thiện nền tảng luật lệ hành chánh còn quá thô sơ lệch lạc của một chế độ quản lý rất rộng mà nông, là cái gì nhà nước cũng muốn kiểm soát chi phối mà thực tế thì chẳng điều động được gì.
- Thứ ba, phải giải tỏa cho tư doanh nội địa phát triển thay vì tập trung bảo vệ khu vực nhà nước. Từ năm 1992 đến nay, Việt Nam đã được khuyến khích và viện trợ để cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước mà tiến độ thì thường xuyên chậm lụt. Từ hai năm nay, lãnh đạo Việt Nam còn tụt lùi khi lập ra các tổng công ty để tăng cường khu vực nhà nước! Thứ tư, không thể có thị trường nếu không có thông tin. Việt Nam đang kiểm soát thông tin còn khắt khe hơn trước thì còn lâu mới có kinh tế thị trường.
- Nói chung, khi khủng hoảng Đông Á bùng nổ năm 1997, Việt Nam đứng ngoài và bị hiệu ứng gián tiếp mà còn tăng trưởng được chừng 5%. Bây giờ, khi vừa bơi ra ngoài lại bị tổng suy trầm mà vẫn tăng trưởng được hơn 5% thì lãnh đạo xứ này cho là mình khôn ngoan. Thực tế là chế độ quản lý vĩ mô xứ này rất tồi tệ và đầy thất quân bình, khi khủng hoảng bùng nổ thì áp dụng khí cụ điều tiết thô thiển với cường độ quá mạnh tới mức thô bạo, và tự gieo họa cho mình mà chưa thấy hậu quả. Vì vậy, chúng ta còn nên chờ đợi nhiều bẽ bàng trước khi có những thay đổi để thị trường nội địa có thể đóng góp được nhiều hơn cho phát triển.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
Gần đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố áp dụng chính sách áp thuế 25% đối với ô tô nhập khẩu vào Mỹ, trước đó Trump cũng đã áp đặt biện pháp trừng phạt chung đối với Liên Âu, Canada, Mexico và Trung Quốc, nhưng lại tạm hoãn trong 30 ngày để cho Canada và Mexico thương thuyết. Các biện pháp bất nhất này gây nhiều hoang mang cho chính giới và doanh nghiệp các nước đối tác.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.