Hôm nay,  

‘long Trời Lở Đất’ Là Cái Gì?

07/07/201000:00:00(Xem: 11535)

‘Long Trời Lở Đất’ Là Cái Gì"

Bìa sách “Ngày Long Trời, Đêm Lở Đất”.


Tâm Việt


Lời Toà Soạn.- Trong một cuộc mạn-đàm mới đây với nhà thơ Du Tử Lê trên SBTN về sinh-hoạt sách báo ở hải-ngoại, anh Đào Văn Đồng của Nhà sách Tự Lực (www.tuluc.com) có cho biết là loại sách về lịch-sử và chính-trị vẫn là loại sách bán chạy nhất trong thị-trường hải-ngoại.  Được hỏi anh có thể cho thí-dụ cụ-thể không, anh Đồng nói: “Chẳng hạn, đó là những cuốn sách như ‘Tâm tư của Tổng Thống Thiệu’ của ông Nguyễn Tiến Hưng hay cuốn ‘Long Trời Lở Đất’.”  Làm cho không ít người ngỡ ngàng, có lẽ vì chưa biết đây là sách gì, tiểu-thuyết hay lịch-sử, văn-học hay nghiên cứu"
Để cho làm sáng tỏ vấn-đề, chúng tôi xin nói ngay, đây là một cuốn tiểu-thuyết của một tác-giả ở trong nước ký bút-danh Trần Thế Nhân, nói về cuộc Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc trong giai-đoạn 1953-1956, mà chính CSVN gọi là “cuộc cách mạng long trời lở đất.”  Ông Hồ Chí Minh khi ký luật đó đã nói: “Luật cải cách ruộng đất của ta chí nhân, chí nghĩa, hợp lí hợp tình, chẳng những là làm cho cố nông, bần nông, trung nông ở dưới có ruộng cày, nhưng đồng thời chiếu cố đồng bào phú nông, đồng thời chiếu cố đồng bào địa chủ.” (nguyên-văn)  Sau ba năm thực-hiện, số người nạn-nhân của Cải cách Ruộng đất, nghĩa là bị giết, lên tới con số chính-thức là 172.008 mà trong đó 70 phần trăm là bị tố oan, giết ẩu (theo tác-giả Đặng Phong trong bộ Lịch sử Kinh tế VN, 1945-2000), nghĩa là cao hơn con số người Việt hy-sinh trong 9 năm chiến-tranh chống Pháp giành độc-lập.
Để độc-giả có một khái-niệm rõ ràng hơn về cuốn sách mà cả tên là “Ngày Long Trời, Đêm Lở Đất” của tác-giả Trần Thế Nhân, chúng tôi xin giới-thiệu dưới đây “Lời Nói Đầu của Nhà Xuất Bản” Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ mà sẽ ra mắt vào cuối tuần này ở Quận Cam (2 giờ chiều thứ Bảy, 10/7, ở Viện Việt Học) và ở San Jose (2 giờ chiều Chủ-nhật, 11/7, ở ViVo).
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
NGÔN NGỮ của loài người hình như bất lực trước sự thô bạo của con người một khi nó đã thành thú.  Bởi con thú không ác, chỉ có con người mới ác với người.  Con thú khi đói thì đi tìm mồi, khi no nó để yên cho các đồng loại và cả những sinh vật yếu kém hơn được “chung sống hoà bình.”  Ngay cả khi phải giết để sinh tồn, con vật cũng không tìm cách kéo dài cái đau, đay nghiến con mồi cho nó thêm khổ sở.  Và hiển nhiên, vì không có ngôn ngữ nên cũng không có vấn đề làm cho con mồi phải chịu nhục, chịu cực hình tâm lý hay nghe những điều phi lý được thốt ra về mình, về gia đình, tổ quốc, hay lý tưởng của mình. 
Có lẽ vì thế mà mỗi khi có sự đổi đời, ngôn ngữ của một dân tộc thường phải trải qua như một cuộc lột xác.  Người ta đã nhắc đến văn học Đức sau thời Đức Quốc Xã, cũng như văn học Nga sau thời Stalin, các tác giả đến sau đều đã phải đẻ ra một ngôn ngữ mới vì những từ ngữ cũ đã hoàn toàn bị vét cạn[1] ý nghĩa để trở thành vô dụng.  Song sự lột xác này không dễ dàng, thường phải là cả tập thể của một cộng đồng ngôn ngữ bỏ ra hàng chục năm, đôi khi mất cả thế kỷ rồi mới tạo dựng lại được một ngôn ngữ “khả tín.”
Những chuyện tương tự không phải là đã không xảy ra trong tiếng nước ta.  Trong lịch sử tiếng Việt, để cho một từ như chữ “tôi” mà nghĩa đầu là “tôi tớ, tôi đòi, tôi mọi” chuyển thành một chữ “tôi” ngang ngạnh, xấc xược, ngang hàng của ngày hôm nay (nhất là khi được nói ra trước người có vai vế, chức vị hơn mình) thì nó cũng đã phải trải qua nhiều biến thiên của lịch sử, thậm chí có thể đến cả hàng ngàn năm.
Người Cộng sản khi vào tiếp quản Hà Nội cuối năm 1954 hay sau này, khi vào thành ở miền Nam năm 1975 làm đảo lộn chữ nghĩa như thế nào thì chúng ta cũng đã kinh qua đủ rõ để biết nó hại tới đâu cho sự trao đổi trong xã hội.  Sự kiện một người gác cổng, với sự khuyến khích của nhà cầm quyền mới, hôm trước hôm sau có thể gọi chủ mình là “anh” thì không những chỉ có nghĩa là đã có một sự đổi ngôi, một sự lên voi xuống chó trong chữ nghĩa mà còn có cả một sự đảo lộn trật tự xã hội mà trong đó người biết việc thì mất vai trò lãnh đạo (ông giám đốc hết làm giám đốc) còn người dốt đặc lên làm “đỉnh cao trí tuệ,” làm “cha” thiên hạ. 
Nhưng không phải đợi đến khi họ vào thành.  Ngay từ những ngày mới phát động phong trào đấu tố trong Cải cách Ruộng đất, họ đã bắt các nông dân, nhiều khi chỉ là lớp tôi tớ, hôm trước còn gọi chủ mình là “ông, bà,” hôm sau đã phải gọi chính những người đó là “thằng nọ, con kia,” rồi còn bắt người chủ tự xưng là “con” để “thưa ông, thưa bà” với các “ông bà” bần cố kia.  Thậm chí một đứa trẻ con cũng có thể bắt một “địa chủ” xưng “con” với mình, để “ông con” hành hạ ngay chính bố mẹ nuôi của mình… chơi.  (Tệ hơn nữa, ở trong lãnh vực bang giao quốc tế, nhiều cán bộ và dân chúng được dạy cho quen miệng để gọi những nhà lãnh đạo ở các nước mà VNCS không thích là “thằng,” là “con” một cách rất láo xược và có thể nói thẳng là “mất dạy.”)
Có lẽ cũng vì thế mà người Cộng sản Việt Nam, khi họ theo chỉ thị của Nga Tàu (nhận mệnh lệnh của Stalin và rập khuôn theo mẫu thức “Thủ ti Cải cửa” của Mao Trạch-đông và Lưu Thiếu-kỳ) họ cũng đã có lý phần nào khi gọi cách mạng ruộng đất của họ là “cuộc cách mạng long trời lở đất.”  Kết quả là như một bộ lịch sử kinh tế trong nước gần đây đã thú nhận, số nạn nhân chính thức của cách mạng ruộng đất ở mới 16 tỉnh,[2] chưa đầy một nửa nước ta hồi bấy giờ (1953-56), đã lên đến 172.008 người, trong đó 70% được xem là vô tội, nghĩa là đã bị bắt lầm, tố điêu, đánh đập, tra tấn, tàn ác dã man rồi giết oan.  Sự thực lịch sử là như thế, có nghĩa là đã có diệt chủng ở nước ta, bởi định nghĩa của diệt chủng (“genocide”) chính là giết người vô tội vạ, “sự sát hủy có hệ thống và có kế hoạch một nhóm người dựa trên chủng tộc, tín ngưỡng, chính trị hay văn hóa của họ.”
Sự thực là thế nhưng làm sao nói lên được sự thực đó trong văn chương lại là cả một vấn đề.  Vì muốn vẽ nên cuộc sống thật trong tất cả những vi mạch của nó không thể là những con số khô khan, trong đó không thấy đâu là máu và nước mắt và sự phản bội và niềm tin đặt nhầm chỗ (như đêm Mai Duy Vỹ tỏ lộ hết niềm tin của mình vào một con người huyền thoại[3] khi nằm bên cạnh vợ, một con người còn hơn cả Chúa lẫn Phật), không thấy đâu là tiếng cười, là đói khát, ăn cả cỏ, đụt khoai, cào cào, châu chấu, giun dế, cóc nhái, chuột… để rồi chết, có khi còn tệ hơn cả một con vật.


Văn học Việt Nam biết nhưng đã bất lực trước những đòi hỏi nghệ thuật ghê gớm quá của một thực tế quê hương như vậy.  Không ít người đã thử vật lộn với đề tài nhưng hình như không thành công, kể cả một tài năng lớn như Tô Hoài (Ba ngươi khác),  nhưng vì không phải là nạn nhân nên ông chỉ nhìn được từ bên ngoài, từ trên xuống, từ góc nhìn của “đội cải cách,” những điều hủ bại ở trong đó, mà không nằm trong da thịt của một Mai Duy Vỹ, một người suốt đời trong sáng, sống chết cho lý tưởng, cho nhân quần.
Người ta nói muốn viết thuyết phục, cần có thời gian để ta nhìn lại với đủ độ xa, cần có khoảng không gian để ta đủ cách mà cân nhắc được mọi sự.  Năm mươi năm hơn đã qua từ những “ngày long trời, đêm lở đất” đó thì may ra cũng có thể có người đủ xa cách để có cái nhìn viễn cận đầy đủ mà viết lại thật sâu sắc về giai đoạn kinh dị và bi thương này của lịch sử--dù là chỉ viết dưới dạng tiểu thuyết.
Chúng tôi đâu ngờ, để có được cái nhìn chính xác, vấn đề không phải là năm tháng hay không gian trên trần thế.  Chúng tôi ở nhà xuất bản đã sửng sốt khi nhận được bản thảo từ quê nhà.  Thì ra tác giả tiểu thuyết chúng ta cầm trong tay đã phải dùng đến thế giới bên này và thế giới bên kia, nghĩa là không còn biên giới không-thời-gian nữa, mới nói nên nổi cái thảm kịch “cải cách ruộng đất” ở quê ta.  Đây là một giải pháp mà thỉnh thoảng văn học thế giới cũng phải dùng đến để nói lên những sự thật không thể nói bằng cách nào khác được: Đó là những “linh hồn chết” của Gogol, đó là những hồ ly tinh của Bồ Tùng-linh trong Liêu trai chí dị.
Trong tay Trần Thế Nhân, những hồn ma kia, vì kiếp trước chính là chúng ta, nên giờ đây tuy họ không còn ở thế giới bên này song họ vẫn không khác ta là mấy.  Một Mai Duy Vỹ, vì là người thật bằng da bằng thịt trước kia nên cũng không khác ông A ông B đi giữa chúng ta.  Nhà báo Nguyễn Minh Cần đã hơn một lần ngỡ ngàng khi nhận ra những nhân vật trong truyện chính là những người ông đã từng biết rõ khi còn ở trong nước, còn một số người khác tuy có thể vì một vài lý do đã bị đổi thay tên một chút song vẫn không che giấu được căn cước thật ngoài đời của họ.  Câu chuyện, tuy là tiểu thuyết, song vẫn thật tới mức đó.  Đó chính là sự thành công của tác giả.
*  
Trong tác phẩm Le degré zéro de l’écriture (“Độ không của chữ viết”), Roland Barthes đã nói: “Sự bùng vỡ của ngôn ngữ văn chương đã là một thể hiện của ý thức”[4] và chính ý thức đau thương của mình đã dẫn người viết đến “cái bi đát của chữ viết.”  Song cái “bi đát của chữ viết” cũng sẽ không thuyết phục được ai nếu nó không dựa được lên trên những sự thật mà không ai có khả năng phủ nhận, những sự thật đôi khi thật tầm thường nhưng vẫn làm nên cái lớn của một tác phẩm, thậm chí, theo Tolstoi, làm nên một đại tác phẩm.
Tiếp tay tác giả Trần Thế Nhân để cho cuốn sách này ra mắt độc giả trước hết là một sự ngẫu nhĩ.  Có lẽ chỉ có chữ “duyên” của nhà Phật mới giải thích nổi tại sao chúng tôi, một nhà xuất bản hải ngoại, lại có được một bản thảo lạ kỳ như tiểu thuyết này ở trong tay.  Song vì sức hút vĩ đại của nó nên gần ngay sau đó, chúng tôi ở Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ đã có được sự cộng tác chi li và cặn kẽ của hai người bạn của Tổ Hợp, ông Nguyễn Quảng Tâm, và nhà biên khảo Nguyễn Minh Cần ở Mạc Tư Khoa—một đàn anh mà chúng tôi đã được may mắn biết trong nhiều năm qua.  Nhờ sự cặm cụi săn sóc của hai ông, chúng ta đã có được một tư liệu thật xác đáng về một đề tài lớn của quê hương, và có thể của cả nhân loại, kể cả sự kiện ông tìm ra cho được những bức hình chụp ngay tại hiện trường trong cải cách ruộng đất ở Việt Nam hồi năm 1955 do nhà nhiếp ảnh Liên Xô Dmitri Baltermants. 
Nguyễn Ngọc Bích
Đại diện
TỔ HỢP XUẤT BẢN MIỀN ĐÔNG HOA KỲ
Đầu Xuân Canh Dần 2010
Chú thích:
[1]  Có người nhắc nhở chúng tôi là chữ “vét cạn” này quá nhẹ.  Thực ra, dưới thời Cộng sản, phải nói là chữ nghĩa nhiều khi bị đảo lộn hoàn toàn để trở thành nghịch nghĩa.  Thí dụ, ông Hồ Chí Minh nói, “Luật CCRĐ chí nhân, chí nghĩa, hợp lý hợp tình…” trong khi xem ra, cuộc cải cách đó đã tỏ ra “CHÍ ÁC, PHI NGHĨA, TRÁI ĐẠO LÝ, TRÁI TÌNH NGƯỜI.”
[2]  Đích xác là ở 3563 xã thuộc 16 tỉnh với dân số trên 10 triệu người (lúc bấy giờ dân số toàn miền Bắc VN khoảng 15 triệu, đến năm 1960 cuộc điều tra dân số cho biết miền Bắc VN có 16 triệu người).  Nếu chỉ nói đơn giản là “16 tỉnh” thì người đọc có thể hiểu lầm là đã có cải cách ruộng đất ở các tỉnh lỵ hay ở các thành phố, trong khi ở những nơi này thì lại có đổi tiền, có “cải tạo tư sản” là những cách giết tiềm năng sản xuất của một thành phần khác của dân tộc.  Quy mô và phạm vi vùng thực hiện CCRĐ là toàn bộ nông thôn miền Bắc VN, chưa kể vùng miền núi—cũng làm CC nhưng nhẹ hơn ở đồng bằng.  Và tỷ lệ là phải tìm cho ra được 5% dân số là địa chủ.  Nói cách khác, người CS dưới sự lãnh đạo tối cao của ông Hồ Chí Minh đã tìm cách giết 5% dân số những người giàu và có khả năng nhất để trên danh nghĩa là phân phát cho người nghèo nhưng đích thức, như ta sẽ thấy mấy năm sau, chính là để cướp hết của dân trên toàn quốc để đưa vào tay đảng CSVN—để nông dân trở thành tá điền cho Đảng, công nhân trở thành giai cấp bị Đảng bóc lột thay vì các chủ tư bản.  (Chúng tôi xin cảm ơn ông Nguyễn Minh Cần đã chỉ cho những chi tiết trên đây.)
[3]  Con người huyền thoại này trong truyện được mô tả là “một con người được tôn vinh là Đấng Chí Linh, Chí Thánh, Chí Thần còn hơn cả Chúa lẫn Phật,” một con người mà trên bốn ngàn năm chưa có ai bằng.  Đây không phải chuyện tiểu thuyết ngoa ngôn, mà chính là cách mà đám lãnh đạo từ Trung ương đến các địa phương đều học nhau mà nói như vậy.
[4]  Nguyên văn trong tiếng Pháp là “l’éclatement du langage littéraire a été un fait de conscience” (Le degré zéro de l’écriture, 1953, trang 57).

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.