Hôm nay,  

Đạo Làm Con

27/07/201000:00:00(Xem: 6654)

Đạo Làm Con 
               
Chân-Quê: Diamond Bích-Ngọc
Những bài học ngày xưa trong trường học thời Đệ Nhị Cộng-Hòa về đạo làm con mà tôi còn nhớ đó là “Nhị Thập Tứ Hiếu”, nói về gương hiếu-thảo của hai mươi bốn người con đối với Cha-Mẹ.  Tác-phẩm này được một học-giả sống vào thời nhà Nguyên, tên là Quách-Cư-Nghiệp viết kể lại bằng chữ Hán.  Ở nước ta, một công-thần nhà Nguyễn là ông Lý-Văn-Phức  (trải qua ba triều vua Minh-Mạng, Thiệu-Trị và Tự-Đức) đã diễn ra Quốc-Âm thành một truyện thơ, viết theo thể “song-thất-lục-bát”;  (trình-tự: hai câu bảy chữ, một câu sáu chữ và một câu tám chữ)
Đây là những bài học mà học-trò thời ấy (trong đó có tôi) phải thuộc lòng trong môn “Cổ-Văn”.  Còn “Kim-Văn” là những truyện ngắn viết theo thể văn xuôi.  Cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ bài thơ nói về nhân vật “Mẫn-Tử-Khiên”:
Thầy Mẫn-Tử rất đường hiếu-nghĩa.
Xét nhà huyên* quạnh quẽ đã lâu,
Thờ Cha sớm viếng khuya hầu,
Chẳng may gặp phải Mẹ sau nồng nàn,
Trời đương tiết đông hàn lạnh lẽo,
Hai em thời kép áo dầy bông,
Chẳng thương chút phận long-đong,
Hoa lau nỡ để lạnh lùng một thân.
Khi Cha dạo theo chân xe đẩy,
Rét căm căm nên xẩy rời tay,
Cha nhìn ngẫm nghĩ mới hay,
Nghiến răng rắp cắt đứt dây xướng tùy.
Gạt nước mắt chân quỳ miệng gửi:
“Lạy Cha xin xét lại nguồn cơn,
Mẹ còn, chịu một thân đơn,
Mẹ đi, luống để cơ-hàn cả ba”.
Cha trông xuống cũng sa giọt tủi.
Mẹ nghe lời cũng đổi lòng xưa,
Cho hay hiếu-cảm nên từ,
Thắm lâu như đá cũng rừ lọ ai”.
(*Nhà huyên: nghĩa là Mẹ).
Đây là câu chuyện nói về một học trò của Khổng-Tử, tên Mẫn-Tử-Khiên, sinh vào đời Xuân-Thu. Mẹ ông mất sớm, Cha ông lấy vợ kế, sinh được hai người con.  Người dì ghẻ đối với ông vô cùng cay độc, nhưng ông vẫn một lòng hiếu thuận.  Vào mùa đông giá rét, hai con riêng của bà được mặc áo ấm lót bông.  Còn Mẫn-Tử-Khiên thì bà cho mặc áo độn hoa lau bên trong không thể đủ ấm, nhưng ông không hề dám hé môi than-phiền.
Một hôm đẩy xe cho Cha dạo chơi, vì quá rét lạnh nên tay chân Mẫn-Tử-Khiên cóng lại và bị xẩy tay kéo.  Cha ông nhìn lại mới biết ra là người kế mẫu đã ác nghiệt để con riêng mình rét lạnh.  Định đuổi ngay người đàn bà ấy đi.  Nhưng Mẫn-Tử-Khiên đã khóc lóc van xin Cha và giải bày rằng: “khi còn bà kế-mẫu trong nhà, thì chỉ một mình con rét lạnh. Nếu bà bị đuổi đi thì hai người em kia của con sẽ chịu rét và khổ lây thêm”.
Người Cha nghe con nói vô cùng xúc động nên nguôi giận.  Còn người dì ghẻ của ông biết chuyện, hiểu rõ lòng hiếu-thảo và tình-thương-yêu của Mẫn-Tử-Khiên đối với hai em cùng Cha khác Mẹ.  Bà suy nghĩ và tự hổ-thẹn là đã ăn ở không phải lẽ.  Từ đó bà thay đổi cách cư-xử với con chồng.
Qua câu truyện ngắn trên, chúng ta thấy lòng hiếu-thảo và tình-thương có thể thay đổi được hoàn cảnh gia-đình một cách êm đẹp.  Theo tác-giả Nhất-Thanh Vũ-Văn-Khiếu trong cuốn sách “Đất Lề Quê Thói” đã nhận định về đạo-hiếu theo quan-điểm xưa như sau:
“Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết.
Thời suy ra trăm nết đều nên.”
Diễn nghĩa là: xét cho cùng những kẻ bất hiếu, bất trung, không tốt với Cha-Mẹ, chắc hẳn không thể tốt với người khác được.  Hơn nữa, những kẻ này sẽ là tấm gương xấu cho con cái họ đi theo.  Người xưa thường bảo: “Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó”.
“Hiếu thuận hoàn sinh hiếu thuận tử,
Ngỗ nghịch hoàn sinh ngỗ nghịch nhi.
Bất tín đãn khán thiềm đầu thủy,
Điểm điểm trích trích bất sai di”.
Có nghĩa là:
“Nếu mình hiếu với Mẹ-Cha,
Mai sau con hiếu với ta khác gì.
Nếu mình ăn ở vô nghì,
Đừng mong con thảo làm gì uổng công.
Kìa xem giọt nước xuôi dòng,
Giọt sau, giọt trước cũng đồng một nơi.”
Nho học xưa có một quan niệm rất nghiêm khắc về đạo hiếu: lúc nhỏ, lúc lớn, lúc già không một ngày được quyền sao lãng đạo làm con.  Còn nhỏ thì một niềm kính cẩn, vâng lời hầu hạ.  Lúc khôn lớn ra đời làm ăn thì lo phụng dưỡng báo hiếu Mẹ-Cha.
Nền âm nhạc Việt-Nam từ  thập-niên 50 có những bài hát như “Ơn Nghĩa Sinh Thành” của Dương-Thiệu-Tước, được mở đầu bằng câu: “Uống nước nhớ nguồn.  Làm con phải hiếu. Công Cha như núi Thái-Sơn.  Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.  Hoặc bài “Lòng Mẹ” của Y-Vân: “Lòng Mẹ bao la như biển Thái-Bình dạt dào”…  là một sự kiện đáng lưu-ý trong đời sống giáo-dục gia-đình của người Việt-Nam về đạo làm con.
Người theo đạo Thiên-Chúa cũng phải thuộc nằm lòng một trong mười điều răn của Đức Chúa Trời, đó là điều răn thứ bốn: “Thảo-Kính với Cha-Mẹ”.  Trong “Huấn Ca Đạo Hiếu” có phần ghi rằng:
“… Ai thờ Cha thì bù đắp lỗi lầm
Ai kính Mẹ thì tích-trữ kho báu.

Hãy thảo-kính Cha-Mẹ con bằng lời nói việc làm.
Để nhờ các Ngài mà con được chúc phúc.
Vì phúc lành của người Cha
Làm cho cửa nhà con cái bền vững.

Chớ vênh vang khi Cha con phải tủi nhục,
Vì nỗi tủi nhục đó chẳng vinh-dự gì cho con.
Quả thật, người ta chỉ vẻ vang
Lúc Cha mình được tôn kính;
Và con cái phải ô-nhục khi Mẹ mình bị khinh-chê…”
 (Huấn-Ca: chương 3, câu 1 đến câu 16).
Trong kho-tàng Ca-Dao Việt-Nam, có mô tả về sinh-hoạt của dân gian như sau:
“Tháng Giêng là tháng ăn chơi.
Tháng Hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà…
… Tháng Sáu buôn nhãn bán trâm,
Tháng Bảy, ngày Rằm xá-tội-vong-nhân”.


Rằm tháng Bảy (Âm-Lịch) hằng năm chính là ngày lễ Vu-Lan.  “Xá-tội-vong-nhân” nhằm nhắc đến tấm gương báo hiếu, cứu Mẹ của tôn-giả Mục-Kiền-Liên, sự  tích này xuất phát từ Kinh Vu-Lan-Bồn vào thời Đức Phật còn tại-thế ở Ấn-Độ.  Kinh này nói lên chuyện tôn-giả Mục-Kiền-Liên nhờ vâng lời Phật dậy đã thỉnh-cầu Chư-Tăng mười phương chú-nguyện, cầu siêu, tịnh-độ cho Mẹ mình là bà Thanh-Đề vào dịp Rằm tháng Bảy.  Nhờ vậy mà bà đã thoát khỏi cảnh ngạ-quỷ, khổ-ải trầm-luân.
Người Phật-Tử thường noi gương Mục-Kiền-Liên báo đáp công Cha, nghĩa Mẹ dù đã qua đời hay còn tại thế như ca-dao ngàn xưa truyền dạy rằng:
“ Cha già là Phật-Thích-Ca
Mẹ già như thể Phật-Bà-Quan-Âm
Nhớ ngày xá tội vong nhân
Lên Chùa lạy Phật đền ơn sinh-thành”. 
Những thời-gian về Việt-Nam làm phim tài-liệu hoặc trên bước đường chia xẻ thình-thương đến người già, trẻ em tàn tật, Thương-Phế-Binh Quân-Lực Việt-Nam-Cộng-Hòa… Hạnh-phúc mà tôi tìm lại được là đi đến các cửa tiệm; nơi bán sách cũ.  Kiếm tìm những tác-phẩm văn-học trước 1975 với mọi chủ-đề về nhân-văn, xã-hội, tôn-giáo, công-dân giáo-dục, đạo-lý người xưa v.v… tất cả đã rách bìa, màu giấy ngả vàng mà sao thật quý giá.   Tôi đi tìm những báu vật này như câu chuyện Dương-Phủ đời nhà Minh đi tìm Phật.
Thờì ấy, Dương-Phủ thi đỗ tiến-sĩ, làm tới chức Ngự-Sử, nổi tiếng là vị quan thanh-liêm, chính-trực.  Thuở bé, vì nhà rất nghèo. Ông phải ra sức cầy cấy, chân lấm tay bùn để cung-dưỡng cho song-thân.  Khi lớn lên, vì có lòng mộ đạo.  Ông xin phép Mẹ-Cha tìm đến vùng đất Thục để được học-đạo vì nơi đó có một đạo-sĩ uyên-thâm Phật pháp tên là Võ-Tế.  Đi được nửa đường, Dương-Phủ gặp một vị lão tăng.  Biết ý định của Dương-Phủ là đang đi tìm Võ-Tế để học đạo, lão tăng liền bảo:  “Gặp Võ-Tế sao bằng gặp được Phật!” Dương-Phủ rất mừng, hỏi xem cách nào gặp được Phật thì lão tăng chỉ dẫn là:
“Đừng đi đâu xa cho mất công.  Thí-Chủ cứ quay về nhà, thấy người nào đi dép ngược, quần áo xốc xếch, hình dạng tất-tả thì đó chính là Phật.”
Nghe lời đạo-sĩ quay trở về. Trong khi đi đường ông chú-ý nhưng chẳng thấy người nào đúng như hình-dáng lão-tăng đã tả, dần dần về tới nhà lúc nào không hay.  Lúc đó Trời đã khuya, Dương-Phủ vừa lên tiếng gọi cửa thì Mẹ ông chạy ra.  Vì quá vội mừng con trở về; người Mẹ đi ngược cả dép, quần áo xốc-xếch, cử chỉ tất-tả mừng mừng tủi tủi giống y như lời lão-tăng  đã chỉ dẫn.
Dương-Phủ đứng ngẩn người ra nhìn, hiểu ngay đó chính là Đức Phật từ-bi mà lão-tăng muốn mình thờ-phụng.  Từ đó trở đi ông tu tại-gia thờ kính Mẹ-Cha như là Phật vậy.  Không cần phải lặn lội đường xa hay cầu kỳ học đạo nữa.
Theo Tăng-Tử thì: “Hiếu-Thảo là đức hạnh đứng đầu trăm đức-hạnh.  Lòng hiếu-thảo mà thấu đến Trời thì gió mưa hòa-thuận.  Lòng hiếu thảo mà thấu đến đất thì muôn vật sinh sôi.  Lòng hiếu-thảo thấu đến người thì các điều phước đều tuôn đến”.
Riêng với Mạnh-Tử, Ngài đã phán-quyết rằng: “Theo thế-tục có năm tội bất hiếu là: Tay chân lười biếng, không đoái hoài đến việc nuôi dưỡng Mẹ-Cha; là một tội bất hiếu.  Thích cờ bạc, rượu chè, bỏ bê Cha-Mẹ; là hai tội bất hiếu.  Ham tiền tài của cải vật-chất không ngó ngàng đến Mẹ-Cha là ba tội bất hiếu. Theo đuổi, ham muốn của tai mắt, dục-vọng bản thân; làm cho Cha-Mẹ mang nhục; là bốn tội bất hiếu. Thích hung-hăng tranh hơn thua địa-vị thế-gian làm liên-lụy đến Mẹ-Cha là năm tội bất hiếu”.
Ai trong chúng ta dường như cũng am hiểu chữ “Đạo” không có ý-nghĩa liên quan đến tín-ngưỡng tôn-giáo.  Theo thuần-ý “Đạo” là “Con Đường”.  “Tu” không có nghĩa là phải cạo đầu vào Chùa hay khoác áo Dòng, áo Triều…  Mà “Tu” có nghĩa là “Sửa”. 
Khổng-Tử cũng đã dạy rằng: “Có lỗi mà không sửa, thì đúng là có lỗi vậy!”
Trở lại với chữ “Đạo” và chữ “Tu”.  Ca-dao Việt-Nam từ ngàn xưa vẫn dạy rằng:
“Tu” đâu cho bằng “Tu” nhà.
Thờ Cha kính Mẹ ấy là “Đạo” con.
Thân-Phụ-Mẫu của tôi đã qua đời hơn mười năm qua.  Ngày giỗ hai Vị thường rơi vào mùa lễ Vu-Lan báo hiếu.  Tôi lại nhớ đến lời Đức Phật dậy trong kinh “Đại-Báo-Phụ-Mẫu-Trọng-Ân”, là phải thực-hiện sáu bổn-phận để báo đáp phần nào công-ơn sinh-dưỡng:
1/ Giữ gìn Tam-Quy, Ngũ-Giới.
2/ Thường học-hỏi và tụng đọc các Kinh-Điển.
3/ Siêng năng lễ Phật Sám-Hối.
4/ Chí-thành phụng-sự Tam-Bảo.
5/ Bố-thí, làm phước, hồi-hướng công-đức cho Cha-Mẹ
6/ Cúng-dường thập-phương-tăng trong ngày Vu-Lan Tự-Tứ.
Tôi cũng ao ước rằng “Đạo Làm Con” trong mỗi người chúng-ta gắn liền với cuộc sống hiện thực; cho dẫu đời tạm này có trùng trùng nhiễu-nhương,  trăm công, nghìn chuyện.  Cho dẫu lòng người thay trắng, đổi đen.  Tình nhân-ái có thu ngắn trong một diện-tích giới-hạn nào hoặc sự bao-dung có khan hiếm như lá mùa Thu.  “Chân-Quê” tôi vẫn nguyện noi theo tấm gương hiếu-hạnh như trong câu chuyện “Nam Hải Quan-Âm”:
“Chân như đạo Phật rất màu,
Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân.
Hiếu là độ được đấng thân,
Nhân là cứu vớt trầm luân mọi loài.
Tinh-thông nghìn mắt, nghìn tay.
Cũng trong một điểm linh đài hóa ra.
Xem trong biển nước Nam ta,
Phổ Môn có Đức Phật-Bà-Quan-Âm.”
Chân-Quê: Diamond Bích-Ngọc.  Viết cho Mùa Vu-Lan năm 2010 (Dương-Lịch) Sẽ được chuyển dịch qua Anh-Ngữ nhằm viết cho những Thế-Hệ Trẻ Việt-Nam nối tiếp).

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi đối với cha mẹ có thể cung kính mà vui vẻ, mới là tận Hiếu. Chữ “Kính” nhấn mạnh việc không để xảy ra sơ suất dù rất nhỏ, phụng dưỡng cha mẹ già xuất phát từ nội tâm, với khuôn mặt vui vẻ, mới có thể nói là “Hiếu.” Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn. Con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.