Hôm nay,  

Mùa Thu

17/09/201000:00:00(Xem: 9179)

Mùa Thu

Hình ảnh mùa thu.


Chân-Quê


Người Việt-Nam xưa, dựa theo chu-kỳ thời-tiết bất di bất dịch của Âm và Dương để chia ra bốn mùa trong một năm gồm: Xuân-Phân, Hạ-Chí, Thu-Phân và Đông-Chí.  Từ Hạ-Chí, trong thiên-nhiên khí Dương dần dần mất sức mạnh (giảm hơi nóng, ấm) để nhường chỗ cho khí Âm; nguyên lý của tối tăm và lạnh lẽo dâng lên để ngự trị vào Thu-Phân.  Vì vậy trời thường se se lạnh và có mây mù che phủ.
Thu-Phân thường rơi vào tháng Tám âm-lịch, tức là đầu hạ tuần tháng Chín dương-lịch.  Ngày rằm tháng Tám nằm giữa thời-điểm của ba tháng mùa Thu. Chính là Tết Trung-Thu hay Tết Tháng Tám hoặc Tết Nhi-Đồng.  Năm nay: 2010.  Rằm Trung-Thu sẽ là ngày 22, tháng 9.  Đây là thời-kỳ bầu trời trong trẻo, mặt trăng rất tròn và sáng rực-rỡ.  Thưở xưa các nhà nho, những nghệ-sĩ thường uống rượu cúc và làm thơ trong ngày này. 
Huyền-thoại kể rằng vào thế-kỷ thứ tám (VIII), vua Đường-Minh-Hoàng là một nghệ-sĩ kiêm họa-sĩ trong một đêm sáng trăng rằm Trung-Thu, ngài bước ra khỏi cung-điện, được một đạo-sĩ chống gậy đến gần đề-nghị vua lên cung trăng dạo chơi.  Vua mỉm cười nhận lời.  Đạo-Sĩ liền tung cây gậy lên trời biến thành chiếc cầu vĩ-đại lấp lánh màu bạc, làm đường lên mặt trăng cho vua.  Ở đó là một cung điện nguy-nga, các cửa vào có chạm lấp lánh những chữ vàng “Cung Quảng Hàn”, không-gian thơm ngát dịu-dàng, những nàng tiên mặc áo xiêm hồng, áo trắng; thướt-tha múa theo điệu nhạc thiên-thai rất diệu-kỳ.  Lúc trở về trần-gian, trong nỗi nhớ nhung vô hạn những kỳ-quan trên cung trăng.  Đường-Minh-Hoàng sai các cung-tần múa và đàn ca theo điệu này.  Từ đó trở đi, trải qua bao nhiêu thế-kỷ; bao thế-hệ nối tiếp, các thi-sĩ, nghệ-sĩ không ngớt theo gương nhà vua, ca ngợi mặt trăng nơi có “Cung Quảng Hàn”, họ dệt nên biết bao nhiêu bài thơ tuyệt-tác hòa theo không gian lành lạnh lãng-mạn của trời Thu. 
Trong thi-ca Việt-Nam, nói đến mùa Thu là phải nhớ đến thi-sĩ Lưu-Trọng-Lư.  Ông sinh năm 1912 ở Cao-Lao-Hạ, huyện Bố-Trạch, tỉnh Quảng-Bình.  Học-Sinh trường Quốc-Học Huế.  Đã xuất bản tác-phẩm “Tiếng Thu” (1939):
Em không nghe mùa Thu
Dưới trăng mờ thổn thức"
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh-phu
Trong lòng người cô-phụ"
Em không nghe rừng Thu
Lá Thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ-ngác
Đạp trên lá vàng khô"
Một trăm năm trước, có một thi-nhân mang bản sắc tâm-hồn Việt-Nam, sống chan hòa với những người “chân quê” giản-dị, mộc mạc, đó là Nguyễn-Khuyến đã dệt bài thơ “Thu Điếu” như sau:
Ao Thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Hoặc trong bài “Thu Ẩm”, thi-sĩ Nguyễn-Khuyến cũng dùng những lời thơ rất dân-gian, đơn-giản nhưng vô cùng tượng-hình và tượng-sắc:
Năm gian nhà nhỏ thấp le-te.
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt"
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy.
Độ năm ba chén đã say nhè.
Riêng với thi-sĩ Huy-Cận. Tức Cù-Huy-Cận.  Sinh ngày 31, tháng 3, năm 1919 ở làng Yên-Phú, huyện Lương-Sơn, tỉnh Hà-Tĩnh.  Trong bài “Thu Rừng”, ông nói lên được sự thâm-u chan hòa cùng cái buồn của nhân-gian, cái sầu của đất trời:
Bỗng dưng buồn bã không gian
Mây bay lũng thấp giăng màu âm-u
Nơi cao gót lẫn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn Thu mới về
Sắc trời trôi nhạt dưới khe,
Chim đi lá rụng cành nghe lạnh lùng,
Sầu Thu lên vút song song
Với cây hiu quạnh với lòng quạnh hiu
Non xanh ngây cả buổi chiều
Nhân-gian nghe cũng tiêu-điều dưới kia.
Buồn sâu thẳm hơn nữa cho một kiếp người chia xa, như những cánh lá mùa Thu phải lìa cành trong bài thơ: “Cây Bàng Cuối Thu” của thi-sĩ Nguyễn-Bính (tên thật là Nguyễn-Trọng-Bính; sinh ở Hưng-Yên năm 1919 và mất 1966.  Ông cũng là tác-giả bài thơ: “Chân-Quê” mà ban nhạc chúng tôi được hân hạnh mang bút-hiệu này):
Thu đi trên những cành bàng
Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi
Hôm qua đã rụng một rồi
Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn-thôn
Hôm nay lá thấy tôi buồn
Lìa cành theo gió lá luồn qua song
Hai tay ôm lá vào lòng
Than ôi chiếc lá cuối cùng là đây!
Quạnh-hiu như tấm thân này
Lại âm-thầm sống những ngày gió mưa.
Mỗi độ mùa Thu trở về, tôi lại nhớ lời Mẹ kể; ngày xưa các bậc Tiền-Bối thường nhìn trăng Thu trong ngày rằm để nói về những điềm báo trước tương-lai của đất nước.  Nếu trăng sáng vằng vặc; nhà nông sẽ được vụ mùa bội thu.  Nếu trăng màu vàng; tằm sẽ nhả nhiều tơ.  Khi mặt trăng chuyển sang màu xanh hay màu lam, thì sẽ có nạn đói kém.  Nếu trái lại, trăng ngả sang màu vàng thì cả nước sẽ sống thái-bình, an-lạc.  Đêm rằm tháng Tám, nếu ta nhận thấy có một chiếc mũ phía trên mặt trăng; thế-gian sẽ vui vẻ.  Nhưng nếu trăng nhìn như có chân, thì vua sẽ ham mê tửu-sắc hoặc bạo-hành.  Khi trong nước có mưu-toan nổi loạn hay trên thế-giới có những dấu hiệu của một cuộc chiến-tranh sắp nổ ra; người ta sẽ nhận thấy trăng có vuốt và có răng.  Nói chung, theo thói quen quan sát mặt trăng đêm rằm tháng tám, đã tạo ra trong trí tưởng-tượng dân-gian cả một thế-giới huyền diệu như chuyện chị Hằng, chú Cuội và Thỏ Ngọc. Với đức từ-bi của đạo Phật; Thỏ coi như biểu-tượng của con người lương-thiện.  Lại có người cho rằng những con Thỏ này thụ-thai trong khi ngắm trăng.  Vì vậy người ta căn cứ vào ánh trăng Thu sáng như thế nào để đoán Thỏ sẽ đẻ nhiều hay ít con.  Như vậy, Thỏ và mặt trăng trở nên biểu tượng của khả năng sinh-sản.


Một truyền-thuyết khác tin là trên mặt trăng có cung của ông Tơ, bà Nguyệt.  Cả hai là người quyết-định việc hôn-nhân của tất-cả mọi người trên trái đất.  Huyền-thoại kể rằng: ngày xửa ngày xưa có một chàng thanh-niên tên là Vi-Cố, một đêm đi qua góc phố, gặp “ông Nguyệt-Lão” ngồi dưới ánh trăng rằm tháng Tám, tay cầm quyển sách.  Vi-Cố hỏi trong sách viết gì"  Được trả lời rằng số-phận hôn-nhân của mọi người trên cõi hồng-trần đều ghi cả trong đó.  Ông cầm một gói chỉ đỏ và nói: “ Tôi buộc chân đàn bà với đàn ông bằng chỉ này.  Dù họ sinh ra từ những gia-đình thù ghét nhau, hay quê quán ở rất xa,  chân trời góc biển nào chăng nữa, dù khác màu da hay chủng-tộc thì số phận họ cũng phải ràng buộc lại với nhau.”  Quá sung-sướng vì gặp được ông Thần Hôn-Nhân, Vi-Cố hỏi ngay: “Cụ có thể nói cho tôi rõ ai sẽ là vợ tôi không"” Ông lão liền trả lời: “Con gái bà bán rau trong cửa hiệu kia sẽ là vợ anh”.  Rồi ông biến mất.  Sự tò-mò thúc đẩy, Vi-Cố đến ngay tiệm ấy và nhìn vào trong thấy người đàn bà bế một bé gái xấu-xí.  Muốn lời tiên-tri của ông lão bí-ẩn kia không thực-hiện được.  Vi-Cố thuê một tên vô-lại giết đứa bé.  Nhưng tên này chém hụt và chỉ gây cho nạn-nhân một vết xước sâu trên phía lông mày.  Quá hoảng sợ vì hành-vi tàn nhẫn của mình nên sau đó Vi-Cố bỏ trốn, ẩn náu trong một nơi xa lo chăm chỉ học hành, rồi được đỗ đạt cao trong các kỳ thi.  Một ngày kia, anh được vào cung vua bệ-kiến.  Trong triều-đình lúc bấy giờ; một vị đại-thần giòng-tộc phú-quý có một cô con gái nuôi xinh đẹp.  Vi-Cố đem lòng yêu thương và xin được cầu-hôn.  Đám cưới xong, hai người sống với nhau rất hạnh-phúc.  Vì nàng là một thiếu-nữ đẹp từ dung-nhan, diện mạo đến tính-tình.  Một hôm Vi-Cố vẽ chân mày cho vợ,  khám phá ra vết xẹo trên lông mày.  Hỏi cho rõ sự tình, nàng nói rằng nghe Mẹ kể lại ngày xưa lúc gia-đình còn nghèo, Mẹ nàng phải đi bán rau và không hiểu sao trong một ngày nọ, bị quân gian đến tấn-công bằng dao mạnh tay trúng nàng bị thương…  Thì ra đây là người mà Vi-Cố đã định tâm hãm hại năm xưa.  Chàng vô-cùng hối-hận và nguyện hết lòng, hết dạ sống tốt với vợ hiền.  Vi-Cố cũng đã quỳ xuống để tạ-ơn  “ông Nguyệt-Lão” năm xưa đã kết tóc se tơ cho vợ chồng chàng nên duyên tiền định. 
Ngày xưa, Tết Thu của mặt trăng, đồng thời cũng là Tết dạm hỏi và cưới xin.  Trong đêm rằm này, trời vừa sẫm tối các thanh-niên thiếu-nữ trong làng tụ tập trước sân nhà hay sân đình để hát đối và ngắm trăng.  Đây là dịp họ làm quen nhau.  Tặng quà và thề hứa, ước nguyện yêu-đương mong nhờ mặt trăng chứng-giám.  Sau buổi này sẽ có lễ dạm hỏi rồi đến lễ cưới. 
Chả thế mà nhạc-sĩ Đoàn-Chuẩn & Từ-Linh đã sáng tác bài hát “Lá  Đổ Muôn Chiều” với lời lẽ thống-thiết thở-than khi người yêu đi lấy chồng trong một ngày Thu:
“Thu đi cho lá vàng bay, lá rơi cho đám cưới về.  Ngày mai, người em nhỏ bé ngồi trong thuyền hoa, tình duyên đành dứt.
Có những đêm về sáng, đời sao buồn chi mấy cố-nhân ơi!  Đã vội chi men rượu nhấp đôi môi mà phung-phí đời em không tiếc nhớ.
Lá đổ muôn chiều ôi lá úa.  Phải chăng là nước mắt người đi.  Em ơi đừng dối lòng.  Dù sao đi nữa không nhớ đến tình đôi ta…”
Hoặc như trong bài hát “Thu Vàng”, được nhạc-sĩ Cung-Tiến viết tại Saigon năm 1953.  Nói lên nỗi cô-đơn, lòng nhớ nhung trong mùa Thu khi người yêu đã chia xa, có hình ảnh dây tơ vàng trên mặt trăng của “ông Nguyệt-Lão”:
“Chiều hôm qua lang thang trên đường.  Hoàng hôn xuống, chiều thắm muôn phương.
Chiều hôm qua mình tôi cô-đơn.  Có mùa Thu về, tơ vàng vương vương.
Một mình đi lang thang trên đường.  Buồn hiu-hắt và nhớ bâng khuâng.  Lòng xa xôi và sầu mênh-mông.  Có nghe lá vàng não nề rơi không"...”
Một trong những bài nhạc xưa về mùa Thu mà tôi yêu thích nhất đó là bài “Thu Hát Cho Người” của Vũ-Đức-Sao-Biển.  Từng câu, từng lời… Có thể nói là không chê vào đâu được.  Hai chữ “tuyệt-tác” không đủ để diễn tả hết cái ý-nghĩa sâu thẳm của bài ca này:
“Giòng sông nào đưa người tình đi biền biệt.  Mùa Thu nào cho người về thăm bến xưa.
Hoàng-Hạc bay, bay mãi bỏ trời mơ.  Về đồi sim ta nhớ người vô bờ.
Ta vẫn chờ em dưới gốc sim già đó.  Để hái dâng người một đóa đẫm tương-tư.
Đêm nguyệt-cầm, ta gọi em trong gió.  Sáng lênh lang hồn ta khóc bao giờ.
Ta vẫn chờ em trên bao la đồi nương, trong mênh mông chiều sương.
Giữa Thu vàng, bên đồi sim trái chín.  Một mình ta ngồi khóc tuổi thơ bay….”
Hầu hết những bài thi-ca dành cho mùa Thu luôn mang âm-hưởng của chia xa buồn bã;  vì lá úa phải lìa cành.  Nói lên nỗi cô-đơn của con người trong không gian lạnh lẽo; luôn mưu cầu có được hơi ấm của tình-thương. 
Nhớ lại những ngày rằm Trung-Thu năm xưa còn bé.  Tôi và đám trẻ con trong cư-xá thường tụ tập từng nhóm đi rước đèn lồng đủ loại màu sắc.  Ca những bài hát mừng trăng Thu: 
“Tết Trung-Thu rước đèn đi chơi.  Em rước đèn đi khắp phố phường.  Lòng vui sướng với đèn trong tay.  Em múa ca trong ánh trăng rằm…” Hoặc: “Bóng trăng, trắng ngà.  Có cây đa to, có thằng Cuội già ôm một mối mơ…”…
Sau đó về nhà “Phá Cỗ” Trung-Thu.  Ăn bánh dẻo, bánh nướng và trái cây đủ loại.  Ơi! Ngày tháng cũ với một thời tuổi thơ vô cùng yêu dấu của tôi!  Xin vô cùng trân trọng và ghi khắc trong tim.
Để thay cho lời kết, xin mượn vài câu thơ trong bài “Nắng Thu” của thi-sĩ Nam-Trân, trích trong tác-phẩm: “Huế, Đẹp và Thơ”, xuất bản năm 1939.  Nói về một “MÙA THU” dịu dàng cảnh quê, với hương đồng gió nội trong hồn thơ thuần hậu, vô cùng trong lành, tươi sáng, chân-tình:
“Hát bài hát ngô-nghê và êm ái
Bên sườn non, mục-tử cỡi trâu về
Nắng chiều rây vàng bột xuống dân quê
Lúa chín đỏ theo gió nồm sắp mái.
Trên suối nhỏ chiếc cầu tre hẻo lánh
Tốp người qua, lẩy vẩy vịn thanh ngang 
Lũ trẻ con sung-sướng nở cười vang
Đùa với bóng chảy theo dòng nước lạnh…” 
Chân-Quê (Viết Cho Mùa Thu Tháng Tám Âm-Lịch - Năm Canh-Dần)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Kể từ khi tổ chức khủng bố Hamas tấn công vào Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023, các vụ xung đột đẫm máu xảy tại Dải Gaza cho đến nay vẫn chưa kết thúc. Nhưng gần đây, cộng đồng quốc tế còn tỏ ra lo ngại nhiều hơn khi giao tranh giữa Israel và lực lượng dân quân Hezbollah ở Lebanon đang gia tăng. Bằng chứng là sau cái chết của thủ lĩnh Hamas Ismail Haniya và thủ lĩnh Hezbollah Hassan Nasrallah, tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Trong vài tháng qua, người dân Mỹ, dù muốn hay không muốn, cũng đã có nhiều cơ hội để nhìn về một bức tranh mà trong đó có quá nhiều sự tương phản. Những mảnh ghép từ hai tầm nhìn, hai chiến lược, hai mục đích hoàn toàn khác biệt đã dần dần rơi xuống, để lộ ra hai con đường hoàn toàn khác biệt cho người Mỹ lựa chọn. Dù có một bức màn đã rơi xuống (như nữ hoàng Oprah Winfrey đã ví von) cho một thuyền trưởng bước ra, trao lại cho người dân sự hy vọng, lòng tin, trách nhiệm, thì sâu thẳm bên trong chúng ta vẫn muốn biết, những giá trị thực của một triều đại đã mang lại. Từ đó, niềm tin sẽ được củng cố.
Bi hài kịch “ngoại giao cây tre”, với hoạt cảnh mới nhất là “cưỡng bức đặc xá”, đã giúp chúng ta nhận ra rằng, dẫu khác nhau nước lửa, “phóng sinh” và “hiến tế” vẫn có thể hội tụ ở ý nghĩa “triều cống” khi phải chiều lòng hai cường quốc ở hai đầu mút của hai hệ tư tưởng trái ngược nhau. Để đẹp lòng bên này thì phải nhẫn tâm “hiến tế”, mà để làm hài lòng bên kia thì phải diễn tuồng “phóng sinh” để có một dáng dấp khai phóng, cởi mở. “Chiến lược ngoại giao” này, phải chăng, là một trò chơi “ăn bù thua” mà, diễn đạt bằng ngôn ngữ toán học của Game Theory, là có tổng bằng không?
Trận Điện Biên Phủ kết thúc vào hôm 7 tháng 5 năm 1954. Bẩy mươi năm đã qua nhưng dư âm chiến thắng, nghe chừng, vẫn còn âm vang khắp chốn. Tại một góc phố, ở Hà Nội, có bảng tên đường Điện Biên Phủ – cùng với đôi dòng chú thích đính kèm – ghi rõ nét tự hào và hãnh diện: “Tên địa danh thuộc tỉnh Lai Châu, nơi diễn ra trận đánh quyết liệt của quân và dân ta tiêu diệt tập đoàn cứ điểm thực dân Pháp kéo dài 55 ngày đêm”.
JD Vance đã chứng tỏ một “đẳng cấp” khác, rất “Yale Law School” so với thương gia bán kinh thánh, giày vàng, đồng hồ vàng, Donald Trump. Rõ ràng, về phong cách, JD Vance đã tỏ ra lịch sự, tự tin – điều mà khi khởi đầu, Thống đốc Walz chưa làm được. Vance đã đạt đến “đỉnh” của mục tiêu ông ta muốn: lý trí, ôn hoà, tỉnh táo hơn Donald Trump. “Đẳng cấp” này đã làm cho Thống Đốc Tim Walz, người từng thẳng thắn tự nhận “không giỏi tranh luận” phải vài lần phải trợn mắt, bối rối trong 90 phút. Cho dù hầu như trong tất cả câu hỏi, ông đã làm rất tốt trong việc phản biện lại những lời nói dối của JD Vance, đặc biệt là câu chất vất hạ gục đối thủ ở phút cuối: “Trump đã thua trong cuộc bầu cử 2020 đúng không?” JD Vance đáp lại câu hỏi này của Tim Walz bằng hàng loạt câu trả lời né tránh và phủ nhận sự thật. Và dĩ nhiên, rất “slick.” “Trump đã chuyển giao quyền lực rất ôn hoà.” Cả thế giới có thể luận bàn về sự thật trong câu trả lời này.
Phải nhìn nhận rằng chuyến đi đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đến Mỹ đã được giới chức ngoại giao Việt Nam thu xếp để ông gặp được nhiều lãnh đạo, xem như xã giao ra mắt để hợp tác, hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lãnh vực trong tương lai. Bài diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc chỉ lặp lại các chính sách đối ngoại của Hà Nội, nên không được truyền thông quốc tế chú ý nhiều như các diễn văn của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky và Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu, là đại diện cho những quốc gia trực tiếp liên can đến các xung đột ở Trung Đông, ở Ukraine mà có nguy cơ lan rộng ra thế giới. Ông Lâm mới lên làm chủ tịch nước kiêm tổng bí thư Đảng Cộng sản được vài tháng, sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời, nên ông muốn dịp đến Liên Hiệp Quốc là dịp để thể hiện vai trò lãnh đạo của mình và nhấn mạnh đến chính sách ngoại giao du dây của Hà Nội.
Sự bất mãn lan rộng với các hệ thống thuộc chủ nghĩa tư bản hiện tại đã khiến nhiều quốc gia, giàu và nghèo, tìm kiếm các mô hình kinh tế mới. Những người bảo vệ nguyên trạng tiếp tục coi Hoa Kỳ là một ngôi sao sáng, nền kinh tế của nước này vượt xa châu Âu và Nhật Bản, các thị trường tài chính của nước này vẫn chiếm ưu thế hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, công dân của nước này cũng bi quan như bất kỳ công dân nào ở phương Tây.
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.