Hôm nay,  

Tôi Và Bố

16/06/200700:00:00(Xem: 11468)

Tôi lớn lên trong thời Đệ Nhị Cộng-Hòa, Bố tôi là một viên-chức về hành chánh của Bộ-Nội-Vụ, trụ sở ông làm việc nằm ở góc đường Nguyễn-Du và Tự-Do (bây giờ đổi tên là Đồng-Khởi).  Thưở Mẫu-Giáo và Tiểu-Học, Bố cho tôi theo học ở trường Hòa-Bình, bên cạnh Nhà Thờ Đức Bà, đối diện Bộ-Nội-Vụ, chắc có lẽ để tiện việc đưa đón tôi.  Sau giờ tan học, Bố thường dẫn tôi vào sở vì ông còn làm việc đến hết giờ mới đưa tôi về nhà để Mẹ tôi lo cơm nước cho gia-đình.

 Trong ký ức tôi vẫn còn nhớ tấm thảm đỏ trải dài suốt dãy hành lang trong sở Bố, nhớ những cái xoa đầu tôi của ông “Xếp” (Boss) Bố là ông Lê-Công-Chất (Thứ-Trưởng Bộ-Nội-Vụ lúc bấy giờ). Nhớ hoài những viên kẹo ngọt, những hộp bánh “Bít-quy” (crackers) của mấy cô, mấy bà thư-ký làm việc cho Bố thường đem cho tôi ăn… Có lẽ vì thế mà tôi thân với Bố từ bé và ít khi nào kể cho Mẹ tôi nghe về những người đẹp trong sở Bố làm… (theo lời Bố dặn).

Đối với Bố tôi, bữa ăn trưa và ăn tối trong gia-đình là điều tối quan trọng không thể thiếu một thành viên nào trong nhà.  Ngày xưa, giờ giấc làm việc của các công-nhân-viên chức Việt-Nam theo chính sách của người Pháp đó là được nghỉ trưa từ 1 đến hai tiếng mỗi ngày.  Bố tôi đã bảo với Mẹ tôi và các chị tôi rằng: “Bà và các con dầu đi đâu cũng phải có mặt đầy đủ trong hai bữa ăn của gia-đình!” … Lời dặn chỉ có thế và mọi người trong nhà đều răm-rắp nghe theo.  Về sau này khi lớn lên tôi mới hiểu đó là cách Bố tôi giữ gìn hạnh-phúc gia đình và cũng là cách dễ nhất để ông có thể gần gũi vợ con, vì trong bữa ăn, mọi người đều kể cho nhau nghe về những diễn biến trong ngày, chúng tôi đều phải trình bày những khó khăn trong học-đường và xin ý kiến Bố-Mẹ.  Cũng như Mẹ thường lên kế hoạch để bàn định về những chỗ đi chơi cuối tuần (thí dụ như: đi Cấp, đi lên rẫy ở Long-Khánh hay đi Lái-Thiêu ăn trái cây v.v…) Nhờ vậy mà bây giờ tiền lệ đó đã được tôi áp dụng trong tiểu-gia-đình mình, nhưng chỉ được bữa ăn tối mà thôi vì làm việc ở Hoa-Kỳ không có giờ về nhà để nghỉ trưa.

Thưở lên mười một tuổi, lúc tôi theo học Trường Nữ Trung-Học Trưng-Vương, có lần Bố đưa tôi và Mẹ tôi đi Siêu-Thị ở đường Nguyễn-Du (gần sở Bố) gọi là chợ “P.X”. Hình như thời bấy giờ Saigon chỉ có một siêu-thị duy nhất bán đồ nhập cảng từ Mỹ.  Khi nhìn thấy một chiếc xe đạp mini gấp được làm đôi để có thể bỏ vào “cốp” (trunk) xe hơi, chiếc xe màu bạc óng ánh đã hấp dẫn tôi hơn kẹo sô-cô-la (chocolate), cà-rem (ice cream) hộp và bất cứ thứ gì chung quanh tôi lúc bấy giờ. 

Tôi đã ở lì trong siêu-thị không chịu đi về sau khi Mẹ đã mua xong những thứ cần thiết.  Khi Bố kéo tôi đi, tôi bỗng òa khóc nức nở và chỉ tay vào chiếc xe đạp nói rằng: “Con chỉ đi về khi Bố mua cho con chiếc xe đạp kia thôi!”. Trong đầu óc bé nhỏ của tôi lúc bấy giờ, bao nhiêu là hình ảnh thích thú hiện ra, nếu tự một mình tôi chạy xe (một kiểu xe đạp duy nhất mới có ở nước Việt-Nam thời bấy giờ, các bạn tôi chắc chắn sẽ vô cùng ngạc nhiên nếu tôi được tự đạp xe đến trường bằng chiếc xe này.  Vì phần lớn nhóm bạn chúng tôi gia-đình ai cũng khá giả, có tài-xế đưa đón và hơn nữa, người lớn đều xem chúng tôi là trẻ nhỏ không được đi học một mình vì sợ bị  “Mẹ Mìn” bắt cóc…)

Tôi còn nhớ phản ứng của Mẹ tôi là mặt bà đỏ bừng lên rồi chạy đến bên tôi ôn tồn bảo: “Con bé hư quá! Nín khóc ngay, không được nhõng nhẽo giữa chợ thế này.  Người ta cười Bố-Mẹ kìa!”.  Đựợc sự vuốt ve của Mẹ, tôi càng khóc lớn hơn vì cảm giác tủi thân chưa được Bố quan-tâm đến.  Tuy khóc nhưng mắt tôi vẫn dõi theo hành động của Bố, tôi thấy Bố đi hỏi giá chiếc xe đạp, sau đó ông quay lại nghiêm nghị bảo với tôi rằng : “Bố sẽ mua cho con với điều kiện là chỉ được chạy sau khi bố tập cho con lái, vì lái xe đạp không phải dễ đâu và con không được tự ý một mình đạp xe ra khỏi khuôn viên nhà, chỉ đạp trong vườn nhà hoặc khi lên rẫy chơi mà thôi, vì lái xe ra đường sẽ rất nguy hiểm”… Tôi gật đầu đồng ý ngay vì nào tôi có nghe rõ những lời Bố dặn, trong tâm thức tôi hình ảnh chiếc xe đạp mini gấp đã chiếm trọn, miễn làm sao tôi phải có nó bằng được thì tôi mới mãn-nguyện. 

Từ đó, mỗi buổi chiều, sau giờ cơm tối, Bố dạy tôi cách giữ thăng bằng để đạp xe, lúc đầu Bố vịn sau yên cho tôi chạy, rồi dần dần ông buông hẳn tay ra, tôi biết lái ngon lành…  Nhóm bạn thân của tôi gồm chín đứa, vì nhỏ con và học giỏi nên ba đứa ngồi một bàn chiếm ba cái bàn đầu trong lớp, đối diện với Giáo-sư. Thầy-Cô và mọi người vẫn thường gọi đám học trò ồn ào cao ngồng ngồi cuối lớp là “xóm nhà lá”.  Đứa bạn nào của tôi cũng mong mỏi tôi đạp xe đến trường để chúng chiêm ngưỡng và lái thử.  Tôi cố suy nghĩ nát óc để tìm ra phương kế. Thường thì Bố tôi có tài-xế lái xe cho Bố đi làm rồi đưa Bố về nhà ăn trưa và nghỉ trưa, giờ Bố nghỉ trưa là chú tài có nhiệm vụ chở tôi đến trường.  Đến chiều tan học, chú tài đến đón tôi trước rồi mới đón Bố từ sở về nhà tôi ở khu Tân-Định.  Đã đôi lần tôi dò la ý của Bố là tôi muốn được tự lập bằng cách đạp xe đến trường một mình,  Bố đã quắc mắt, gằn giọng bảo: “Con đã hứa với Bố như thế nào trước khi Bố mua xe cho con"”…Thế là tôi im ngay.

Cơ hội ngàn vàng đã đến với tôi, vì buổi trưa hôm ấy sau giờ ăn trưa, Bố tôi vào phòng nghỉ như thường lệ.  Mẹ tôi có công việc phải đi Đà-Lạt vài ngày. Tôi sửa soạn cặp-táp xong chạy xuống phòng trọ của chú tài bên cạnh phòng chị người làm, thấy chị Ba đang cạo gió cho chú tài. Tôi bảo: “Trời ơi! Chú Minh bị trúng gió rồi.  Chú nghỉ ở nhà đi để chút nữa còn đưa Bố đi làm, con đi xe đạp đến trường được rồi!” Cả hai người  đều trợn tròn mắt nhìn tôi.  Chị Ba nói ngay: “Không được đâu cô. Ông dặn tụi tui là coi chừng không cho cô đạp xe ra ngoài đường.” Chú tài mặt đỏ như gấc cũng nói theo: “Có bệnh gì tôi cũng ráng đưa cô Út đi, lỡ ông biết được tôi bị đuổi việc liền!” Tôi mới kể cho chị Ba và chú tài nghe về sự trông đợi của bạn bè tôi đựợc nhìn thấy chiếc xe đạp, nếu không một lần mang đến cho chúng nó xem thì chúng sẽ bảo tôi là thợ vẽ, làm gì có chiếc xe đạp mini bằng sắt mà gấp lại được…

Tôi đem tất cả khả năng “hùng-biện” của mình để thuyết phục hai người. Nhất là hôm ấy tôi biết trước mình được về sớm hai giờ cuối vì Thầy-Cô bận họp. Tôi nói rằng tôi sẽ đạp xe về nhà sớm, chú Minh không cần phải nói với Bố tôi điều gì cả, vì tôi cũng không muốn chú nói dối.  Buổi chiều khi Bố tan sở là tôi đã có mặt ở nhà rồi, sẽ không ai biết gì cả!” Thấy giọng tôi chắc ăn như bắp.  Chú Minh có vẻ xiêu lòng, phần vì chú có vẻ rất mệt.  Chị Ba run lẩy bẩy như sắp làm một chuyện động Trời. Mọi việc thu xếp xong, tôi ung dung đạp xe đến trường một mình lần đầu tiên trong đời, Saigon tháng sáu thường mưa nên hôm ấy Trời không có nắng, tôi rất thận trọng đạp từng vòng xe.  Người đi đường ai cũng nhìn tôi vì chiếc xe quá đặc biệt lần đầu tiên xuất hiện trên đường phố. Tôi nhớ là khi đến trường, tôi đã gởi chiếc xe yêu quý của tôi trong nhà bác lao-công ở trong trường và cho bác ít tiền. 

Đến giờ tan lớp, các bạn tôi xúm-xuýt, trầm trồ bu quanh chiếc xe, tìm cách gấp đôi lại rồi gỡ ra, tôi cho mỗi đứa chạy thử một vòng ở cuối con đường Nguyễn-Bỉnh-Khiêm.  Có đứa không biết đạp cũng đòi dẫn bộ đi cho oai. Con đường ngập xác lá vàng, có những trái “Giáng-Tiên” rơi xuống xoay vòng cầu đẹp như một bức tranh.  Chưa bao giờ tôi thấy mình hạnh-phúc như thế với bạn bè.  Bất thình lình, mây đen kéo tới, tôi quýnh lên từ giã các bạn để còn đạp xe về nhà sớm. 

Theo lộ-trình mỗi ngày chú tài đưa đi, tôi chạy dọc con đường Thống-Nhất (bây giờ đổi tên là Lê-Duẩn), đến đường Hai-Bà-Trưng quẹo tay mặt là sẽ về đến nhà.  Trời bỗng đổ mưa như trút nước, mưa mịt mù phố xá. Lần đầu tiên tôi được tắm mưa, cảm giác lạnh và sợ, tim tôi đập loạn lên nhưng chân vẫn không ngừng đạp.  Đến gần trước Tòa-Đại-Sứ Mỹ, tôi thấy xe mình lao vào một vật cản bằng sắt lù lù trước mặt, một cái “Rầm”, tôi té xuống đường, rách toạt vạt áo dài trắng, tôi thấy máu chảy ra từ cánh tay và rồi, một ông lính Mỹ trong quân-phục, đội nón sắt có chữ: “MP” gác trước cổng Tòa-Đại-Sứ chạy nhào tới bế xốc tôi lên, tôi bất tỉnh ngay lúc đó…    

Tôi bị sốt mê man mấy ngày liền, lúc lơ mơ tỉnh dậy  thấy Mẹ và Bố, sợ quá tôi lại ngất đi, không ăn uống gì được, Bố phải đưa tôi vào bệnh-viện “Đồn-Đất” để được tiếp nước biển cho tôi.  Bác-Sĩ người Pháp nói rằng tôi bị “Thương Hàn”. Một tháng trời tôi phải nằm viện, bỏ học vì cơn đau “thập tử nhất sinh”. Mẹ tôi cầu Trời, khấn Phật ngày đêm.  Bố tôi xanh xao vì lo lắng, ông cũng mất ăn, mất ngủ vì thương tôi quá…

Cuối cùng, tôi khỏi bệnh.  Ngày xuất viện về nhà, Bố mua cho tôi một bó hoa “Tulip” màu vàng rất đẹp, không một ai dám nhắc đến cái tai-nạn “chiếc xe mini gấp của tôi”. Chú tài-xế Minh không bị đuổi việc và chị Ba vẫn là người làm trong nhà. Khi ra nước ngoài, chị tôi mới kể rằng lúc bấy giờ, Bác-Sĩ cấm mọi người trong nhà nhắc đến chuyện đó! Bắt buộc những sinh-hoạt phải bình thường như trước lúc tôi gặp tai-nạn.

Đến năm 1981, Bố lo cho tôi đi vượt biển, tàu tôi may mắn được dàn khoan cứu vớt, tôi qua Úc định cư rồi vài năm sau, tôi lo thủ tục bảo lãnh cho Bố-Mẹ, các chị cùng đoàn tụ gia-đình. Suốt thời gian này tôi được dịp phụng-dưỡng Bố Mẹ để đáp đền phần nào tình-thương mà hai đấng Phụ-Mẫu đã dành cho tôi.

Sau này tôi qua Mỹ định-cư vì tư tưởng luôn tìm tòi, mạo hiểm và thích khám phá tôi đi chu du nhiều nơi trên thế-giới.  Lúc hay tin Mẹ lâm bệnh, tôi đã bay trở lại Úc để lo cho Mẹ tôi đến ngày bà nhắm mắt. Bố ở với các chị, tôi phải quay về Mỹ, vì lúc ấy tôi đã có gia-đình.  Đúng một năm sau ngày Mẹ mất. Một buổi chiều, đầu tháng tám, tôi nhận điện thoại từ Úc, hung tin báo rằng Bố tôi đang hấp hối, tôi xin bên nhà một bức điện thư của bệnh-viện chứng nhận để ra phi-trường được mua vé khẩn bay ngay đêm hôm ấy.  Bố tôi nhắm mắt lúc tôi đang bay ở trên Trời. 

Tới Phi-Trường Melbourne, làm thủ tục nhập cảnh xong , tôi bước ra ngoài gặp ngay một tiệm bán hoa.  Duy nhất một bó “Tulip” vàng nằm trong chậu xen lẫn với những bó hoa Hồng, LyLy, Cúc trắng… Nước mắt bỗng tuôn trào, tôi đến mua ngay bó hoa “Tulip” vàng ấy. Thuê xe tôi lái thẳng đến bệnh-viện, tôi đọc kinh suốt đoạn đường dài, đầu nhức như búa bổ, nhưng sao hình ảnh chiếc xe đạp mini gấp trong chợ “PX” năm nào hiện ra rất rõ.  Rồi đến khuôn mặt đỏ bừng của Mẹ khi tôi làm nũng, rồi đến hình ảnh Bố, cái nhìn nghiêm khắc nhưng đầy trìu mến của Bố bao trùm lấy tôi…

Đến cửa bệnh-viện, tôi mệt gần muốn xỉu.  Người ta cho biết xác Bố tôi đã được đưa vào phòng lạnh.  Tôi khóc ngất, đòi được nhìn xác Bố.   Các nhân-viên phải làm thủ tục ngay vì biết tôi mới từ Mỹ bay về.  Mười phút sau, một người y-tá dẫn tôi đi qua một hành lang dài hun hút im lìm hai dẫy phòng trắng toát màu vôi.  Tôi chợt nhớ đến dãy hành lang trải thảm đỏ trong sở Bố ngày xưa. Mắt tôi cay xé, đến trước một căn phòng với cánh cửa sắt thật dầy (có lẽ để giữ được độ lạnh phía bên trong), người y-tá khó khăn lắm mới đẩy được cánh cửa để đưa tôi vào. 

Một Thế-giới khác!  Lạnh toát và thật xa lạ, Bố tôi nằm thanh thản như ngủ trên một chiếc giường cũng bằng sắt lạnh, hai tay chắp trước ngực.  Đó là giấc ngủ ngàn thu của Bố, tôi xin người y-tá ra ngoài cho tôi được một mình với Bố.  Ông ta hỏi lại tôi bằng tiếng Anh: “Are you sure"” Tôi gật đầu bảo chỉ vài phút thôi.  Cánh cửa đóng lại sau khi người y-tá bước ra, tôi ôm chầm lấy xác Bố mà khóc nức nở.  Tôi ước gì những giọt nước mắt nóng của mình sẽ làm ấm lại thân thể đóng băng của Bố tôi.  Tôi đặt bó hoa “Tulip” vàng gọn gàng trên ngực Bố.

Bó hoa “Tulip” vàng được liệm cùng xác Bố tôi, thay cho lời tạ lỗi mà tôi không có dịp để tỏ bày khi Bố còn sống về vụ việc năm xưa.

Bây giờ ở Hoa-Kỳ, mỗi khi ngày Lễ Father’s Day đến, tôi đều tìm mua một tấm thiệp có hình hoa “Tulip” vàng đề vào đó ba chữ: “Con Yêu Bố!” rồi đốt đi như gửi vào đất, vào gió tình của tôi và Bố./.

(www.diamondbichngoc.com)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi còn tại chức, không ít lần, T.T Nguyễn Xuân Phúc đã khiến cho dân tình hoang mang hay bối rối khi nghe những câu chữ rất lạ kỳ: “Quảng Ninh là đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Vĩnh Phúc sẽ vươn lên trở thành đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Long An phải trở thành đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Hải Phòng là đầu tàu quan trọng của cả nước’, ‘Bình Dương phải là đầu tàu phát triển kinh tế mạnh nhất của cả nước …”
Nhưng 64 năm sau (1960-2024), đảng đã thoái hóa, biến chất. Đảng viên thì tham nhũng, suy thoái đạo đức, lối sống tự diễn biến và tự chuyển hóa, bài bác Chủ nghĩa Mác-Lênin và cả “tư tưởng Hồ Chí Minh” nữa...
Một tuần sau, sau khi dư luận nổi sóng về phát biểu của thiếu niên Chu Ngọc Quang Vinh (“tôi coi đảng như một thế lực xấu chỉ biết lừa gạt dân”) tạm lắng – hôm 7 tháng 9 vừa qua – nhà văn Phạm Đình Trọng kết luận: “Sự việc cho thấy người dân, nhất là thế hệ trẻ đã có nhận thức sâu sắc về pháp luật, có ý thức về sự có mặt của cá nhân trong cuộc đời, trong xã hội”.
Nội dung phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm ngày 27/08/2024 về đường lối khóa đảng XIV cho thấy ông không dám đi ra khỏi quỹ đạo một người Cộng sản bảo thủ để được tồn tại...
Kamala nhắc lại Donald Trump đã cảm ơn Tổng Thống Tập Cận Bình về những gì ông ta đã làm trong thời gian đại dịch COVID. Bà nhớ cả nội dung Trump đã viết trên Twitter: “Thank you, President Xi” và đọc lại cho chục triệu người dân Mỹ đang xem màn hình. “Khi chúng ta biết rằng Tập Cận Bình phải chịu trách nhiệm vì không cung cấp và cung cấp không đầy đủ cho chúng ta sự minh bạch về nguồn gốc của COVID.” Kamala nhắc lại cả việc Donald Trump đã mời Taliban đến David Camp, “là một nơi có ý nghĩa lịch sử đối với chúng ta, với tư cách là những người Mỹ, một nơi mà chúng ta tôn vinh tầm quan trọng của ngoại giao Hoa Kỳ, nơi chúng ta mời và tiếp đón các nhà lãnh đạo thế giới được kính trọng. Và cựu tổng thống này với tư cách là tổng thống đã mời họ đến David Camp vì ông ta, một lần nữa, không biết tầm quan trọng và trách nhiệm của tổng thống Hoa Kỳ. Và điều này quay trở lại vấn đề ông ta đã liên tục hạ thấp và coi thường các quân nhân của chúng ta, những người lính đã hy sinh...
Từ ngày nước Mỹ lập quốc, chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại bị đối thủ mang ra mổ xẻ, tấn công với những lời lẽ không phù hợp với tư cách một người tranh cử vị trí lãnh đạo quốc gia. Nhưng ngược lại, cũng chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại trở thành niềm hy vọng cho một đất nước đang đối đầu với mối nguy hiểm “duy nhất suốt 248 năm” (theo lời cựu Phó Tổng Thống Dick Chenny.) Đó là nụ cười của Kamala Harris – Một nụ cười đang ngày càng thay hình đổi dạng cuộc tranh cử tổng thống kinh điển của nước Mỹ.
Cựu Tổng Thống Donald Trump đã trình bầy kế hoạch kinh tế của ông tại Economic Club of New York trước đám đông các kinh tế gia, lãnh đạo doanh nghiệp và nhà báo vào 5-9-2024 vừa qua. Buổi nói chuyện này nằm trong chiến dịch tranh cử. Kế hoạch kinh tế trong nhiệm kỳ 2 nếu ông thắng cử bao gồm nhiều chính sách mà ông đã thi hành trong bốn năm đầu cầm quyền. Ông tuyên bố sẽ loại bỏ nhiều chương trình của chính quyền Biden. Ứng cử viên tổng thống của Cộng Hòa quảng cáo chương trình của ông với thuế nội địa thấp, thuế nhập cảng cao chưa từng thấy, giảm bớt luật lệ, và kinh tế phát triển mạnh. Nhưng nhiều chuyên viên đã nghi ngờ giá trị của chương trình kinh tế này. Nhiều người đã lên tiếng chỉ trích đề xuất kinh tế của Trump như chúng ta sẽ thấy trong những phần dưới đây của bài báo này.
Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 sắp tới không chỉ định hình tương lai chính trị của quốc gia trong vài năm tới mà còn đặt ra những câu hỏi căn bản về bản sắc và tương lai của chính nước Mỹ. Trong khi kết quả bầu cử sẽ quyết định nhiều vấn đề quan trọng, những xung đột sâu sắc về bản chất của nước Mỹ đã được phản ảnh rõ nét qua đường lối, chính sách nêu ra tại hai đại hội Đảng Cộng Hòa và Dân Chủ vừa qua.
Tôi đã xem qua cả trăm bài viết với với nội dung và ngôn từ (“đầu đường xó chợ”) tương tự nhưng chưa bao giờ bận tâm hay phiền hà gì sất. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, các bạn DLV đều không quen cầm bút nên viết lách hơi bị khó khăn, và vô cùng khó đọc. Họ hoàn toàn không có khái niệm chi về câu cú và văn phạm cả nên hành văn lủng củng, vụng về, dài dòng, lan man trích dẫn đủ thứ nghị quyết (vớ vẩn) để chứng minh là đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước luôn luôn đúng đắn. Họ cũng sẵn sàng thóa mạ bất cứ ai không “nhận thức được sự đúng đắn” này, chứ không thể lập luận hay phản bác bất cứ một cáo buộc nào ráo trọi.
Ngày 20/7/1969, hai phi hành gia Neil Armstrong và Edwin Aldrin đi vào lịch sử như là hai người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng thế nhưng sự kiện này bị một số nhà “lý thuyết âm mưu” lên tiếng phủ nhận. Căn cứ vào những điểm “khả nghi” trong tấm hình chụp Armstrong đứng cạnh lá cờ cắm trên Mặt Trăng, họ quả quyết rằng tất cả chỉ là chuyện dàn dựng và bức hình này chỉ được chụp tại một sa mạc ở Nevada. Nhưng bằng chứng của vụ đổ bộ ấy đâu chỉ duy nhất một tấm hình? Tàu Appollo 11 phóng từ mũi Kennedy trước con mắt hàng chục ngàn người và hàng trăm triệu người qua ống kính truyền hình. Hàng trăm ngàn thước phim quay được và chụp được khi tàu Appollo vờn trên quỹ đạo quanh mặt trăng, cảnh tàu con rời tàu mẹ để đổ bộ, cảnh các phi hành gia đi bộ và cả những túi đất đá mang về từ Mặt Trăng v.v. Chúng ta thấy gì ở đây? Những bằng chứng xác thực thì nặng như núi nhưng, khi đã cố tình không tin, đã cố vạch ra những âm mưu thì chỉ cần mấy điểm khả nghi nhẹ tựa lông hồng.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.