Hôm nay,  

Câu Chuyện Ông Trời

23/12/200700:00:00(Xem: 8951)

Những người  chủ  trương “Vô thần” trong những  thế kỷ trước đây, đặc biệt  Friedrich Wilhelm Nietzsche (1844-1900), Jean-Paul Sartre ( 1905-1980), đã  tuyên bố  “Thiên Chúa đã chết!” (Dieu est mort!   God is dead!).

 Sartre đã chết vào năm 1980. Hồi đó có người đã đăng lên báo lời Cáo phó: “Jean-Paul Sartre đã chết” và dưới ký tên “Thiên Chúa.”

 Nietzche đã chết! Sartre đã chết!  Những  đồ đệ của các ông hồi đó, bây giờ cũng đã chết. Các danh nhân hào kiệt một thời lừng lẫy tên tuổi như Thành Cát Tư Hãn, A-Lịch-Sơn Đại Đế, các Hoàng Đế Rôma uy phong lẫm liệt, Tần Thủy Hoàng, các lãnh tụ độc tài ‘coi trời bằng vung’ như Hitler, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông…đều đã chết. Nhưng Ông Trời (Thiên Chúa) ‘vẫn sống’ và suốt ngày người ta vẫn kêu Ông Trời ‘Trời ơi!’  (Oh my God!  Mon Dieu!...) . Người ta  ‘kêu Trời’ cả khi vui, cả khi buồn, cả khi bất mãn, cả khi thỏa lòng.

Người ta kêu Ông Trời để cầu xin:

“Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống…”

Người ta cũng kêu Ông Trời để than vãn:

“Trời hành cơn lụt mỗi năm…”

“Trẻ Tạo Hóa đành hanh quá ngán

Chết đuối người trên cạn mà chơi…”

“Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen…”

Người ta cũng nại đến Ông Trời để  thề,  để chứng minh lòng thành của mình:

“Hoàng Thiên hữu nhãn!”

“Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhân!”

Con người từ thuở xa xưa cũng đã nhận ra ‘có Ông Trời’ và bằng nhiều cách khác nhau tìm cách để ‘cúng vái Ông Trời’. Tại Việt Nam thời các vua chúa, cũng có ‘Điện Thờ Trời’ và ngày đầu năm mới, vua phải thân hành đến điện để cúng Trời và cầu cho ‘quốc thái dân an’.

Quan niệm về ‘Ông Trời’ thật khác nhau tùy theo các chủng tộc, các địa phương và biến chuyển qua thời gian và thường rất mơ hồ. Mỗi bộ lạc, mỗi dân tộc đều có tiếng để chỉ “Ông Trời”. Việt Nam chúng ta có nhiều tiếng để chỉ “Ông Trời”: Trời, Thượng Đế, Hoàng Thiên, Đấng Tạo Hóa, Thiên Chúa...

Con người thường rất sợ Ông Trời và lo lắng để tránh bị Trời phạt tội. Các tai ương, bịnh tật…đều được coi như  do Ông Trời gây ra để phạt tội con người. Từ mối sợ hãi mơ hồ này, người ta đã ‘sáng tạo’ ra biết bao “Ông Thần” để thờ cúng: Thần Sông, Thần Núi, Thần thủy, Thần Hỏa… Các tinh tú cũng được gán cho danh hiệu ‘thần’: Thần Mặt Trời, Thần Vénus, Thần Jupiter…

Việc thờ cúng nhiều khi trở thành ‘mê tín dị đoan’, có khi giết người để thờ cúng Thần. Có nơi thờ bò, thờ khỉ, thờ cá ông voi,vv…

Cha ông chúng ta từ ngàn xưa đã nhận ra TRỜI như là Thượng Đế (Vua trên hết các vua). Các vua ở trần gian là con của Trời, vì thế gọi là “Thiên Tử” (Con Trời), ‘thay Trời để trị dân’. Cha ông chúng ta cũng nhận ra chỉ có một  Ông Trời. Trong chữ Nho, chữ Trời (Thiên) gồm có bộ ‘nhất’ và ‘đại’ nói lên ‘Trời là vị lớn duy nhất’. Tôi nhớ hồi trước Linh mục Nguyễn Văn Thích (1891-1978), giáo sư Đại Học về Triết Đông, đã say mê giảng về chữ ‘Thiên’ (theo quan niệm triết học Á Đông như trên). Hỏi ra tôi mới biết Cha Thích ( cũng như Cha Bửu Dưỡng , 1907 – 1987)              đã nhận ra ‘Ông Trời’ khi còn tuổi thanh niên và đã quyết tâm tìm cách gia nhập vào “Đạo Trời” (Thiên Chúa Giáo) dù gặp bao trở ngại, kể cả việc phản đối mạnh mẽ của gia đình. Chỉ mãi tới tuổi 28, mới được chịu phép “Thánh Tẩy” để gia nhập Giáo Hội công Giáo. Sau đó lại muốn dấn thân đem cả cuộc đời để phục vụ ‘Trời’ và ‘Tha Nhân’, nên đã bỏ mọi sự để ‘đi tu’ làm Linh Mục, và suốt cuộc đời sống khổ hạnh để rao giảng về “Đạo Trời” cho mọi tầng lớp dân chúng, ở các giáo xứ, hay trong các trường Đại Học: “Đạo” không còn phải chỉ là con đường sống cho xứng con người tự nhiên; hoặc không phải chỉ là một nền luân lý, một nền tảng đạo đức để noi theo mà sống ‘đạo làm người’; nhưng ”Đạo” còn là con đường để đi đến với Ông Trời chính danh, Đấng đã dựng nên con người, và vũ trụ, cũng như mọi vật trong vũ trụ, đúng theo nghĩa của ‘Religion’ với nguyên ngữ tiếng La-Tinh ‘Religere’ là “nối kết”; “Đạo” vì thế có nghĩa là con đường đưa ta đến với Trời và đi đến với nhau; nối kết Trời với con người và nối kết con người với nhau. Trời chẳng nhũng là Tạo hóa mà còn là  Cha  và mọi người đều là anh chị em với nhau trong gia đình nhân loại.

Kinh Thánh (The Bible) cho chúng ta biết Trời đã dựng nên con người ‘theo hình ảnh’ của Trời ( Sách Khởi Nguyên 1,27); vì thế khác hẳn mọi loài vật khác, con người có trí thông minh, biết suy tưởng, có lý luận, biết tìm hiểu và tiến bộ không ngừng. Con người lại được Trời ban cho có ý thức tự do, và vì thế cũng có trách nhiệm:  mỗi người phải chịu trách nhiệm về chính cuộc đời của mình, và liên đới trách nhiệm với tha nhân trong liên hệ gia đình nhân loại. Vì có ‘Tự do’ và ý thức trách nhiệm nên mới ‘có tội’ và ‘có phúc’.

Ông Trời cũng dựng nên con người có ‘Xác’ và có ‘Hồn thiêng’ , và vì thế con người có thể liên kết với Trời là ‘Đấng thiêng liêng’ và con người cũng tồn tại mãi mãi (trường sinh bất tử). Chết chỉ là chết ‘thể xác’ nhưng hồn thiêng vẫn còn sống mãi (Chết là thể phách, còn  là tinh anh). Chính khi ‘chết’ lại là lúc con người được bước vào cuộc sống mới, cuộc sống vĩnh hằng. Vì thế, tiếng Việt Nam rất đúng khi cùng chữ ‘Qua đời’ để chỉ về sự chết: Qua cuộc đời ngắn ngủi này để về cuộc sống vĩnh hằng. Chính vì thế mới có câu nói ‘sống gửi, thác về’, về đâu" Về quê thật là Nước Trời, về với Chúa là Cha, Đấng đã dựng nên mình.

Cũng theo Kinh Thánh, Trời không bao giờ xa con người. Trời đã dựng nên con người theo ‘hình ảnh của Trời’, và không bỏ rơi con người muốn sống  thế nào  tùy ý (như quan niệm của nhóm Deism). Nhưng Trời vẫn quan phòng mọi sự trên thế giới này để phục vụ con người theo chương trình ‘cứu rỗi’ của Ngài dọc theo dòng lịch sử của nhân loại.

Hơn nữa, để con người hiểu rõ hơn về Trời, chính Trời đã đến với con người, đã ‘nhập thể’ và sống cuộc đời như con người, hòa mình với mọi người, nhất là những người nghèo khó, khổ đau.” Thiên Chúa đã xuống thế làm người và ở giữa chúng ta” (Gioan 1,14) để tỏ hiện cho con người biết về Thiên Chúa thật và cách thờ phượng Ngài cho đúng cách. Con người đã biết Ngài như Ông Trời, Thượng Đế, Đấng Tạo Hóa v.v… Nhưng Thiên Chúa nhập thể đã dạy cho chúng ta biết “Thiên Chúa là Tình Yêu!” (1 Gioan 4,8). Là Tình Yêu, Ngài cũng là Cha của mọi người chúng ta. Ngài là ‘Cha nhân từ hay tha thứ’ (Xin đoc Luca, chương 15), chứ không phải là Đấng chỉ nhằm ‘phạt tội’  hay ‘bắt tội’ con người!

Chúng ta là con cái của Chúa , và là anh chị em với nhau trong gia đình nhân loại (Tứ hải giai huynh đệ!). Dù da đen, da trắng, da vàng… Dù nói bao nhiêu thứ tiếng khác nhau, chủng tộc khác nhau… nhưng ‘dị biệt trong Duy Nhất’,  chúng ta vẫn có thể cầu nguyện với Ngài bằng các thứ tiếng khác nhau: “Lạy Cha chúng con…( Mátthêu 6,9…).  Có thể sánh ví nhân loại chúng ta như một vườn hoa: Vườn hoa nhân loại có đủ mọi thứ hoa, màu sắc khác nhau, hương thơm khác nhau, thật dị biệt, nhưng lại hòa hợp với nhau thành một sự hài  hòa tuyệt vời!

Nếu nhân loại nhận biết và sống theo Tin Mừng tình thương của Chúa, thì nhận loại sẽ có thể sống trong hòa bình, yêu thương như anh em một nhà. Rất tiếc, qua dòng lịch sử, con người đã dùng tự do Chúa ban để chống lại chính Thiên Chúa, sống thác loạn theo tự do vô lối, theo thú tính ích kỷ ham danh lợi thú, chối bỏ Thiên Chúa là Cha, chiều theo các ‘thần giả dối’, thờ ‘ngãu tượng’. Khi con người đã chối bỏ Thiên Chúa, chủ trương ‘vô thần’ thì cũng dễ sống ‘vô luân’ (vô luân thường đạo lý). Khi “Thiên Chúa đã chết ”, thì nhân loại không còn là một gia đình nữa, con người không còn anh em với nhau mà “Người này là hỏa ngục của người khác!’”(L’Enfer, c’est les Autres, Jean-Paul Sartre). Con người nhìn nhau như thù địch, rình mò hãm hại lẫn nhau, dèm pha, nói xấu, tìm cách để tiêu diệt lẫn nhau.  Vì thế, những kẻ vô thần tìm cách lật đổ Thiên Chúa, phá bỏ ‘Thiên đàng’ để quyết tâm xây dựng thiên đàng ngay trên trần thế này , nhưng hóa ra lại xây dựng ‘hỏa ngục’, và con người trở nên ‘qủy dữ’ giết nhau không thương tiếc. Hitler đã giết bao nhiêu triệu người, ngoài sáu triệu người có dòng máu Do Thái. Các lãnh tụ Công sản như Lenine, Stalin, Mao Trạch Đông… đã tàn sát bao nhiêu triệu người để xây dựng thiên đàng hạ giới!

Trong đêm Thiên Chúa giáng sinh làm người để ở giữa chúng ta’ (Emmanuel), các mục đồng cùng với các Thiên Thần đã đến thờ lạy Đấng Hài Nhi mới sinh, và các thiên thần đã hát lời “Vinh danh thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Thiên Chúa đã xuống thế làm người đem bình an đến cho thế giới; nhưng chỉ những người thành tâm thiện chí mới cảm nghiệm được bình an thật của Chúa, mới biết sống yêu thương và chung tay xây dựng hoà bình trong gia đình, trong thế giới.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong bối cảnh thế giới đang trải qua những biến động nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và công nghệ, toàn cầu hoá – vốn từng được xem là động lực chính thúc đẩy cho tăng trưởng và thịnh vượng – đang đứng trước những thách thức chưa từng có. Tiến trình công nghiệp hoá và toàn cầu hoá đã đem lại nhiều thành tựu vượt bậc trong suốt thời gian dài qua, từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI, đặc biệt là thông qua sự chuyên môn hoá, tự do thương mại và tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên, các cuộc khủng hoảng tài chính, đại dịch toàn cầu, chiến tranh và cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc đã khiến mô hình toàn cầu hoá truyền thống bộc lộ nhiều tình trạng bất ổn...
Nhiều thế hệ sống ở Sài Gòn những năm của thập niên 80-90, khi con gà trống của Thương Xá Tax chưa bị bức tử, khi những hàng cây cổ thụ trên đường Tôn Đức Thắng vẫn là nét thơ mộng của Sài Gòn, có lẽ đều quen thuộc với câu “Chương Trình Truyền Hình Đến Đây Là Hết…” Nó thường xuất hiện vào cuối các chương trình tivi tối, khi chưa phát sóng 24/24. Thời đó, mỗi ngày truyền hình chỉ phát sóng trong một số khung giờ nhất định (thường từ chiều đến khuya) nên hầu như ai cũng có tâm lý chờ đợi đến giờ ngồi trước màn ảnh nhỏ, theo dõi vài giờ giải trí. Đó cũng là chút thời gian quên đi một ngày cơ cực, bán mồ hôi cho một bữa cơm độn bo bo thời bao cấp. Nhắc nhớ chút chuyện xưa, để nói chuyện nay, đang diễn ra ở một đất nước văn minh hàng đầu, từng là niềm mơ ước của biết bao quốc gia về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận.
Trên mạng gần đây lan truyền một bức tranh chuỗi tiến hóa ngược nhại kiểu Banksy - vẽ hình ảnh tiến hóa quen thuộc từ khỉ tiến tới người, nhưng đến giữa chặng đường, một gương mặt ai cũng nhận ra quay lưng đi ngược lại về phía khỉ. Cái dáng ngoảnh đầu ấy khiến tôi chạnh lòng nghĩ đến hình ảnh nước Mỹ hôm nay. Giữa thế kỷ XXI, lẽ ra phải tiếp tục đi tới, nhưng thay vì mở rộng tự do học thuật – ngọn nguồn của sáng tạo – chúng ta lại thấy những dấu hiệu nước Mỹ thoái lui theo một quỹ đạo lạ lùng: thử nghiệm một kiểu “tiến hóa ngược”.
Từ khi Tối Cao Pháp Viện lật đổ Roe v. Wade, chúng ta đều biết câu chuyện không dừng lại ở đó. “Để tiểu bang tự quyết” chỉ là cái cớ. Và Texas, tiểu bang bảo thủ dẫn đầu, vừa chứng minh điều đó bằng một luật mới: trao cho bất kỳ ai quyền săn lùng và kiện những người dính dáng tới thuốc phá thai. Texas vốn đã có một trong những lệnh cấm khắc nghiệt nhất: phá thai bị cấm hoàn toàn, trừ vài ca y tế khẩn cấp. Không ngoại lệ cho thai dị tật chết non. Không ngoại lệ cho hiếp dâm. Không ngoại lệ cho loạn luân. Thế nên, nhiều phụ nữ Texas chỉ còn con đường tìm đến thuốc phá thai qua mạng, thường từ những nhà cung cấp ở ngoài tiểu bang. Luật mới nhắm thẳng vào cánh cửa mong manh ấy.
Suốt 250 năm, người Mỹ đồng ý rằng cai trị bởi một người duy nhất là sai lầm, rằng chính quyền liên bang vốn cồng kềnh, kém hiệu quả. Lẽ ra hai điều ấy đủ để ngăn một cá nhân cai trị bằng mệnh lệnh từ Bạch Ốc. Nhưng Trump đang làm đúng điều đó: đưa quân vào thành phố, áp thuế quan, can thiệp vào ngân hàng trung ương, chen vào quyền sở hữu công ty, gieo nỗi sợ để buộc dân chúng cúi đầu. Quyền lực bao trùm, nhưng không được lòng dân. Tỉ lệ chấp thuận của ông âm 14 điểm, chỉ nhỉnh hơn chút so với Joe Biden sau cuộc tranh luận thảm hại năm ngoái. Khi ấy chẳng ai lo ông Biden “quá mạnh”. Vậy tại sao Trump, dù bị đa số phản đối, vẫn dễ dàng thắng thế?
Có bao giờ bạn nói một điều rõ ràng như ban ngày, rồi nghe người khác nhắc lại với nghĩa hoàn toàn khác? Bạn viết xuống một hàng chữ, tin rằng ý mình còn nguyên, thế mà khi quay lại, nó biến thành điều bạn chưa từng nghĩ đến – kiểu như soi gương mà thấy bóng mình méo mó, không phải bị hiểu lầm, mà bị người ta cố ý dựng chuyện. Chữ nghĩa, rơi vào tay kẻ cố ý xuyên tạc, chẳng khác gì tấm gương vỡ. Mỗi mảnh gương phản chiếu một phần, nhưng người ta vẫn đem mảnh vỡ đó làm bằng chứng cho toàn bộ bức tranh. Một câu, một đoạn, một khẩu hiệu – xé khỏi bối cảnh trở nên lệch lạc – hóa thành thứ vũ khí đâm ngược lại chính ý nghĩa ban đầu. Câu chuyện của đạo diễn Trấn Thành gần đây là một minh họa. Anh chỉ viết đôi dòng thương tiếc chia buồn với sự ra đi của nghệ sĩ đàn bầu Phạm Đức Thành. Vậy thôi. Thế mà lập tức bị chụp mũ, bêu riếu, bị gọi “3 que,” “khát nước,” “Cali con.” Người ta diễn giải đủ kiểu, vẽ ra đủ cáo buộc: từ tội mê văn hóa Việt Nam Cộng Hòa đến tội phản quốc.
Sau thất bại trước đối thủ đảng Dân Chủ Joe Biden trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020, nội các “gia đình trị” của Donald Trump gần như biến mất khỏi chính trường. Các đồng minh không thể có cùng tiếng nói với Trump, nhất là sau vụ bạo loạn Quốc Hội Jan 06. Duy nhất một người vẫn một lòng trung thành không bỏ rơi Trump, đó chính là Stephen Miller. Nhiệm kỳ hai của Trump, người được cho là có quyền lực hơn trong vòng tròn thân cận của Trump, hơn cả JD Vance, chẳng ai khác hơn chính là Stephen Miller. Để tạo ra những ảnh hưởng chính trong chính quyền Trump hôm nay, Miller đã có một đường dài chuẩn bị, khôn ngoan và nhẫn nại.
Đầu tháng 8 năm 2025, Tổng thống Donald Trump đã ký một mệnh lệnh đặc biệt, chỉ đạo các cơ quan hữu trách lập kế hoạch đưa quân đội Hoa Kỳ đi trấn áp các tổ chức tội phạm ở Mỹ Latinh. Khoảng hai tuần sau, mệnh lệnh đã thành hiện thực. Ba khu trục hạm có gắn phi đạn viễn khiển (guided-missile destroyers) của Hoa Kỳ đã được khai triển tới vùng biển Venezuela, đảm trách việc chặn giữ các chuyến hàng ma túy.
Một góc khuôn viên của Đồi Capitol sáng Thứ Tư là những câu chuyện tưởng đã bị chôn vùi, nay được kể ra trong sự run rẩy, xúc động và cả nước mắt. Trước hàng chục ống kính truyền thông chiếu trực tiếp trên toàn quốc, khoảng mười người phụ nữ lần lượt kể ra câu chuyện của chính mình – nạn nhân của Jeffrey Epstein, tỷ phú tội phạm tình dục và buôn bán mại dâm trẻ vị thành niên. Ngày đó, những phụ nữ này chỉ vừa 16, 18 tuổi, nhỏ nhất là Marina Lacerda, 14 tuổi.
Ở đời, chẳng có ngai vàng nào là miễn phí. Muốn hỏi cưới công chúa thì phải có sính lễ. Làm gì có chuyện đi tay không mà cuỗm được gái đẹp — trừ trường hợp dùng quyền lực bẩn thỉu cưỡng hiếp gái tơ (nghe quen quen). Muốn làm đàng anh đàng chị không thể vừa keo kiệt vừa đòi được người ta kính nể. Quy luật xưa nay không đổi ăn khế thì phải trả vàng. Ngai vàng toàn cầu cũng vậy -- không chỉ làm bằng vàng, mà còn bằng chi phí, lời hứa, và trên hết, là sự tín nhiệm.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.