Hôm nay,  

Văn Hóa Và Phát Triển

22/10/200900:00:00(Xem: 10100)

Văn Hóa Và Phát Triển

Nguyễn Xuân Nghĩa & Việt Long RFA

...Đài Loan vẫn theo đạo Phật nhưng kinh doanh rất giỏi...
Cách đây một năm, khi khủng hoảnh tài chính bùng nổ tại Hoa Kỳ và lan khắp nơi khiến kinh tế toàn cầu bị suy trầm nặng thì nhiều người nói đến khủng hoảng của kinh tế trị trường hay tư bản chủ nghĩa. Một năm sau, các khối kinh tế lớn trên thế giới đều đụng đáy và đang hồi phục với mức độ nhanh chậm khác nhau, nhưng dường như không còn ai nói đến khủng hoảng của kinh tế thị trường nữa. Khi tổng kết lại kinh nghiệm của cơn chấn động vừa qua, người ta có thể chú ý tới một khía cạnh mơ hồ mà cá biệt của các nền kinh tế, là yếu tố văn hoá. Diễn đàn Kinh tế sẽ làm một tổng kết sơ khởi về yếu tố văn hoá ấy trong tiến trình phát triển của các nước. Cuộc trao đổi với nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa về đề tài này sẽ do Việt Long thực hiện sau đây.
Việt Long: Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Sau một năm cơ như hốt hoảng vì khủng hoản tài chính và suy trầm kinh tế, thế giới đang bước qua giai đoạn hồi phục với tốc độ khác biệt của từng quốc gia. Một câu hỏi có vẻ mơ hồ là yếu tố chung khả dĩ giải thích khả năng ứng phó và phục hồi đó có thể là nét văn hóa của từng nhóm quốc gia hay không" Nhìn sâu xa hơn, ông thấy là yếu tố văn hoá ảnh hưởng thế nào đến tiến trình phát triển trong trường kỳ và đến khả năng đối phó với các biến động nhất thời của kinh tế"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng câu hỏi này không mơ hồ mà lại rất cần thiết để ta thấy ra nhiều ngộ nhận quá phổ biến về tương quan giữa văn hoá và phát triển, lồng trong đó là khả năng ứng phó với các biến động kinh tế.
- Muốn tìm hiểu vấn đề, trước hết, tôi xin đề nghị là ta có thể hiểu văn hoá theo lối đơn giản nhất "là những tập quán bất thành văn - cụ thể là không viết thành luật lệ - mà một cộng đồng nào đó cùng chia sẻ, cùng tôn trọng vì các lý do lịch sử hay tôn giáo tích lũy từ nhiều thế hệ". Chúng ta chọn một định nghĩa đơn giản như vậy để biết là cùng nói về chuyện gì.
Việt Long: Thưa vâng, xin đồng ý với định nghĩa đó.
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thứ hai, từ khi loài người chọn hình thái kinh tế thị trường, là lấy quy luật cung cầu làm yếu tố chính trong các quyết định kinh tế - một hình thái thật ra cũng mới chỉ xuất hiện và phổ biến từ vài thế kỷ thôi - thì người ta nghiệm thấy một hiện tượng là sinh hoạt kinh tế có bị chi phối bởi những chu kỳ thăng giáng, lên xuống. Ở đây, ta không đi sâu vào việc giải thích các chu kỳ ấy mà chỉ tìm hiểu xem yếu tố văn hoá mình vừa nói ở trên ảnh hưởng thế nào đến cách đối phó với chu kỳ ấy. Nói cho nôm na thì mỗi nền văn hoá có thể chỉ ra một cách xử trí với nghịch cảnh và xuyên qua đó, ảnh hưởng đến tiến trình phát triển trong trường kỳ. Như vậy có được không"
Việt Long: Chúng tôi hiểu rằng ta sẽ đề cập đến nhiều phạm trù khá trừu tượng thuộc về lý luận nên ông muốn minh định nền tảng vấn đề một cách đơn giản và dễ tiếp nhận. Nếu đồng ý ở các định nghĩa đó, mình có thể nào tìm ra giải đáp về tương quan giữa văn hoá và phát triển không" Cụ thể thì tập quán văn hóa của một dân tộc có là yếu tố thuận lợi hoặc tiêu cực cho phát triển"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Câu hỏi ấy rất xác đáng và có khi sẽ giải tỏa được nhiều ngộ nhận lưu cữu từ cả trăm năm nay.
- Khởi đầu của ngộ nhận là lý luận của nhà xã hội học nổi tiếng của Đức là Max Weber. Ông là một nhà tư tưởng lớn và từ đầu thế kỷ 20 đã giải thích chủ nghĩa tư bản từ đạo tắc - là quy tắc đạo đức - của đạo Tin Lành, với hàm ý là tinh thần khổ hạnh cần kiệm của người theo đạo Tin Lành đã giúp cho việc tích lũy tư bản đề đầu tư. Do lý luận có ý giải thích sự phát triền của chủ nghĩa tư bản từ một tập quán văn hoá, người ta tin rằng một nền văn hoá này có lợi thế cao hơn một nền văn hoá khác chẳng hạn. Sở dĩ người ta tin như vậy vì trong hệ thống Tây phương nếu đối chiếu hai nếp văn hóa xuất phát từ tôn giáo là Công Giáo và Tin Lành, thì các nước phát triển sớm đều theo đạo Tin Lành của hệ phái Calvin khác với các nước theo Công giáo ở miền Nam. Nhưng đây là một ngộ nhận vì sau đó xứ nào của Âu Châu hay Bắc Mỹ cũng đều phát triển mạnh. Trong thất hùng kinh tế là nhóm G-7 của bảy nước công nghiệp hàng đầu thế giới ngày nay, có bốn nước Âu Châu, Hoa Kỳ, Canada và cả Nhật Bản là quốc gia không nằm trong hệ thống Thiên chúa giáo hay văn hoá Âu châu.
Việt Long: Và nếu kể thêm trường hợp Trung Quốc là cường quốc kinh tế mới nổi nay sắp bắt kịp Nhật Bản thì đúng là văn hoá Tin Lành, Công Giáo hay Thiên Chúa Giáo không giải thích được tất cả. Thế nhân chuyện Nhật Bản hay Trung Quốc đang là cường quốc kinh tế thì mình có thể kết luận rằng nếp văn hoá Khổng Mạnh có là yếu tố thuận lợi cho phát triển không"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Trung Quốc và Nhật Bản là hai trường hợp gọi chung là Đông Á trong khu vực rất đa diện và phức tạp của Á châu.
- Trong thế kỷ 20, vốn hướng dẫn dư luận toàn cầu từ khá lâu, các nước Âu châu vẫn lý luận rằng Á châu không có tương lai và văn hoá Á Châu có những đặc tính không thuận lợi cho kinh tế thị trường và phát triển. Đấy cũng là một ngộ nhận theo lối suy nghĩ của Max Weber, rằng dân châu Á không có tinh thần kinh doanh như dân Âu châu. Thật ra, Nhật Bản đã công nghiệp hoá rất sớm và trên doanh trường quốc tế ngày nay, dân Á châu chẳng thua kém gì ai. Lồng trong sự ngộ nhận ấy lại có vài huyền thoại khác ly kỳ không kém.


- Chẳng hạn như qua nhiều thập niên, người ta cho rằng văn hoá Khổng Mạnh quá coi trọng vai trò của tập thể và không phát huy sáng kiến hay quyền lực cá nhân như tại Âu Châu, nên cũng gây trở ngại cho phát triển. Sau đó, người ta lại nói ngược rằng tinh thần tập thể của văn hoá Á châu là yếu tố có lợi cho công nghiệp khi mọi người đều tham gia với tinh thần kỷ luật cao vào tiến trình sản xuất trong nhà máy. Cực đoan hơn thế, người ta còn phát triển một lý luận sai lầm về cái gọi là "giá trị Á châu" trong tiến trình phát triển, tức là gián tiếp đề cao kỷ cương thậm chí quyền lực nhà nước châu Á như yếu tố phát triển có ưu thế ổn định hơn sự phóng túng của cá nhân hay rối loạn của thị trường theo kiểu Tây phương. Lý luận này còn hàm ý bênh vực sự chuyên quyền và độc đoán sung dụng tài nguyên của một nhà nước anh minh sáng suốt nên cổ võ ngầm cho chế độ độc tài. Nó bị phủ nhận bởi vụ khủng hoảng kinh tế Đông Á năm 1997-1998. Chế độ tập quyền dẫn tới tham nhũng và sai lầm trong phân phối tài nguyên đầu tư và đối phó với chu kỳ suy trầm, nên không thể là động lực tốt cho phát triển.
Việt Long: Như ông vừa trình bày thì đạo Tin Lành, văn hoá đề cao tự do cá nhân của Âu Châu hoặc tư tưởng Khổng Mạnh của Á Châu không nhất thiết là một ưu điểm hoặc là một trở ngại tự nhiên và tiên khởi của công cuộc phát triển"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa đúng như vậy và ta nên vượt qua những nghịch lý ấy thì mới hiểu ra yếu tố quyết định của công cuộc phát triển. Một thí dụ khác cũng rất đáng chú ý cho người Việt là sự khác biệt giữa Hàn Quốc và Đài Loan. Đại Hàn nói chung là một bán đảo đã được Nhật Bản cưỡng bách công nghiệp hoá từ đầu thế kỷ 20. Sau khi bị chia đôi thì Bắc Hàn vốn đã có nền công nghiệp nặng lại bị lụn bại dưới chế độ cộng sản. Trong khi miền Nam, thời đó chủ yếu là chỉ có canh nông, lại phát triển mạnh về kỹ nghệ để bắt kịp Nhật Bản trên nhiều địa hạt siêu kỹ thuật. Nhưng dân Đại Hàn nói chung đều nghi ngờ và thật ra không ưa Nhật Bản. Ngược lại, là một thuộc địa của Nhật từ xưa, Đài Loan không có tinh thần tỵ hiềm đó với nước Nhật và cũng không phát triển bằng công nghiệp nặng hay kỹ nghệ chế biến như Nam Hàn. Họ chọn đường khác, với một số ngành công nghệ tin học, thương mại và dịch vụ kể cả tài chính. Đa số dân Đài Loan vẫn theo đạo Phật nhưng kinh doanh rất giỏi chứ không vì Phật giáo mà quay lưng với phát triển. Yếu tố khác biệt giữa bốn nước ấy - là Nhật Bản, Nam Hàn, Bắc Hàn và Đài Loan - không phải là văn hoá Á Châu mà là sự chọn lựa về chế độ chính trị.
Việt Long: Và nói về chế độ chính trị, chúng ta không quên trường hợp Ấn Độ, một cường quốc đang lên mà đã có lần ông nhắc tới trong một chương trình về Trung Quốc vào tháng trước"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa đúng như vậy, khi mình nói đến cách so sánh của giáo sư kinh tế Milton Friedman giữa chế độ tập thể chính trị và tự do kinh tế của Trung Quốc với chế độ tự do chính trị mà kinh tế tập thể của Ấn Độ. Năm 2006, ông Friedman dự báo là Trung Quốc sẽ có xung đột trong khi Ấn sẽ phát triển mạnh sau khi từ bỏ chế độ kinh tế tập thể từ gần hai chục năm trước.
- Về trường hợp Ấn Độ, ta chú ý tới một đặc điểm của họ là đa nguyên về văn hoá và tôn giáo nhờ tinh thần cởi mở và dân chủ về chính trị. Sau khi theo đuổi đường lối kinh tế nhuốm mùi bao cấp khá lâu thì từ năm 1991 trở về sau, đảng Quốc Đại thuộc cánh tả đã từ bỏ đường lối ấy để ngả theo kinh tế thị trường. Sau đó, đảng bảo thủ Bharatiya Janata tiếp tục tự do hoá kinh tế và năm 2005, liên minh cánh tả trong đó có cả đảng Cộng sản lên cầm quyền vẫn theo đuổi con đường cải cách kinh tế cho thông thoáng hơn. Dư luận quá chú ý tới Trung Quốc mà chưa nhìn thấy sự lớn mạnh đáng kể của Ấn Độ. Thành thử, yếu tố quyết định cho công cuộc phát triển không tùy thuộc vào văn hoá Khổng Mạnh, Ấn Độ giáo, Hồi giáo hay Phật giáo mà có lẽ phải tìm thấy ở nơi khác.
Việt Long: Chúng ta đi tới kết luận và câu hỏi cuối của chúng tôi ở đây là nếu không là văn hoá thì động lực nào mới quyết định về tiến trình phát triển trong lâu dài"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng động lực chính cho công cuộc phát triển một quốc gia đi theo kinh tế thị trường là "khả năng định chế hóa tinh thần cởi mở để hệ thống chính trị lấy được những quyết định đúng đắn về kinh tế và xã hội". Tôi xin giải thích từng yếu tố trong này.
Thứ nhất, "tinh thần cởi mở" có nghĩa là không ai trong xã hội lại có độc quyền chân lý, tức là phán rằng chỉ tư tưởng của mình mới duy nhất có lý. Chủ quan như vậy thì dễ quyết định sai về kinh tế khi mà thị trường hoạt động ngày càng phức tạp và mở ra toàn cầu mà thời gian quyết định để ứng phó lại thu hẹp, trễ một ngày hay một giờ là bị lỗ bạc tỷ. Thứ hai, "định chế hóa tinh thần cởi mở" ấy có nghĩa là phải cho xã hội có những quyền hiến định về tự do thông tin và trao đổi tư tưởng hầu ai ai cũng có thể hiểu rõ sự vận hành của thị trường nội địa và quốc tế mà tìm ra giải pháp có lợi và có quyền phê phán những quyết định sai để còn kịp sửa. Thứ ba, hệ thống chính trị phải phân quyền để thiểu số lãnh đạo không có độc quyền quyết định về kinh tế vì lẽ tất yếu là nếu có toàn quyền thì sẽ lấy loại quyết định có lợi cho thiểu số ở trên mà hy sinh quyền lợi của đa số còn lại, thí dụ như về đầu tư, thuế khóa, tín dụng, lương bổng. Làm như vậy là cản trở phát triển và thu hẹp khả năng ứng phó cấp thời với các chu kỳ suy trầm kinh tế. Tổng kết lại thì không phải văn hoá mà là chính trị và chính sách vĩ mô mới có ảnh hưởng mạnh nhất tới sinh hoạt kinh tế và công cuộc phát triển trong trường kỳ. Xứ nào cũng có thể bị suy trầm hay suy thoái kinh tế, nhưng xã hội càng tự do thì càng sớm tìm ra giải pháp thích đáng cho đa số.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi còn tại chức, không ít lần, T.T Nguyễn Xuân Phúc đã khiến cho dân tình hoang mang hay bối rối khi nghe những câu chữ rất lạ kỳ: “Quảng Ninh là đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Vĩnh Phúc sẽ vươn lên trở thành đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Long An phải trở thành đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Hải Phòng là đầu tàu quan trọng của cả nước’, ‘Bình Dương phải là đầu tàu phát triển kinh tế mạnh nhất của cả nước …”
Nhưng 64 năm sau (1960-2024), đảng đã thoái hóa, biến chất. Đảng viên thì tham nhũng, suy thoái đạo đức, lối sống tự diễn biến và tự chuyển hóa, bài bác Chủ nghĩa Mác-Lênin và cả “tư tưởng Hồ Chí Minh” nữa...
Một tuần sau, sau khi dư luận nổi sóng về phát biểu của thiếu niên Chu Ngọc Quang Vinh (“tôi coi đảng như một thế lực xấu chỉ biết lừa gạt dân”) tạm lắng – hôm 7 tháng 9 vừa qua – nhà văn Phạm Đình Trọng kết luận: “Sự việc cho thấy người dân, nhất là thế hệ trẻ đã có nhận thức sâu sắc về pháp luật, có ý thức về sự có mặt của cá nhân trong cuộc đời, trong xã hội”.
Nội dung phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm ngày 27/08/2024 về đường lối khóa đảng XIV cho thấy ông không dám đi ra khỏi quỹ đạo một người Cộng sản bảo thủ để được tồn tại...
Kamala nhắc lại Donald Trump đã cảm ơn Tổng Thống Tập Cận Bình về những gì ông ta đã làm trong thời gian đại dịch COVID. Bà nhớ cả nội dung Trump đã viết trên Twitter: “Thank you, President Xi” và đọc lại cho chục triệu người dân Mỹ đang xem màn hình. “Khi chúng ta biết rằng Tập Cận Bình phải chịu trách nhiệm vì không cung cấp và cung cấp không đầy đủ cho chúng ta sự minh bạch về nguồn gốc của COVID.” Kamala nhắc lại cả việc Donald Trump đã mời Taliban đến David Camp, “là một nơi có ý nghĩa lịch sử đối với chúng ta, với tư cách là những người Mỹ, một nơi mà chúng ta tôn vinh tầm quan trọng của ngoại giao Hoa Kỳ, nơi chúng ta mời và tiếp đón các nhà lãnh đạo thế giới được kính trọng. Và cựu tổng thống này với tư cách là tổng thống đã mời họ đến David Camp vì ông ta, một lần nữa, không biết tầm quan trọng và trách nhiệm của tổng thống Hoa Kỳ. Và điều này quay trở lại vấn đề ông ta đã liên tục hạ thấp và coi thường các quân nhân của chúng ta, những người lính đã hy sinh...
Từ ngày nước Mỹ lập quốc, chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại bị đối thủ mang ra mổ xẻ, tấn công với những lời lẽ không phù hợp với tư cách một người tranh cử vị trí lãnh đạo quốc gia. Nhưng ngược lại, cũng chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại trở thành niềm hy vọng cho một đất nước đang đối đầu với mối nguy hiểm “duy nhất suốt 248 năm” (theo lời cựu Phó Tổng Thống Dick Chenny.) Đó là nụ cười của Kamala Harris – Một nụ cười đang ngày càng thay hình đổi dạng cuộc tranh cử tổng thống kinh điển của nước Mỹ.
Cựu Tổng Thống Donald Trump đã trình bầy kế hoạch kinh tế của ông tại Economic Club of New York trước đám đông các kinh tế gia, lãnh đạo doanh nghiệp và nhà báo vào 5-9-2024 vừa qua. Buổi nói chuyện này nằm trong chiến dịch tranh cử. Kế hoạch kinh tế trong nhiệm kỳ 2 nếu ông thắng cử bao gồm nhiều chính sách mà ông đã thi hành trong bốn năm đầu cầm quyền. Ông tuyên bố sẽ loại bỏ nhiều chương trình của chính quyền Biden. Ứng cử viên tổng thống của Cộng Hòa quảng cáo chương trình của ông với thuế nội địa thấp, thuế nhập cảng cao chưa từng thấy, giảm bớt luật lệ, và kinh tế phát triển mạnh. Nhưng nhiều chuyên viên đã nghi ngờ giá trị của chương trình kinh tế này. Nhiều người đã lên tiếng chỉ trích đề xuất kinh tế của Trump như chúng ta sẽ thấy trong những phần dưới đây của bài báo này.
Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 sắp tới không chỉ định hình tương lai chính trị của quốc gia trong vài năm tới mà còn đặt ra những câu hỏi căn bản về bản sắc và tương lai của chính nước Mỹ. Trong khi kết quả bầu cử sẽ quyết định nhiều vấn đề quan trọng, những xung đột sâu sắc về bản chất của nước Mỹ đã được phản ảnh rõ nét qua đường lối, chính sách nêu ra tại hai đại hội Đảng Cộng Hòa và Dân Chủ vừa qua.
Tôi đã xem qua cả trăm bài viết với với nội dung và ngôn từ (“đầu đường xó chợ”) tương tự nhưng chưa bao giờ bận tâm hay phiền hà gì sất. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, các bạn DLV đều không quen cầm bút nên viết lách hơi bị khó khăn, và vô cùng khó đọc. Họ hoàn toàn không có khái niệm chi về câu cú và văn phạm cả nên hành văn lủng củng, vụng về, dài dòng, lan man trích dẫn đủ thứ nghị quyết (vớ vẩn) để chứng minh là đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước luôn luôn đúng đắn. Họ cũng sẵn sàng thóa mạ bất cứ ai không “nhận thức được sự đúng đắn” này, chứ không thể lập luận hay phản bác bất cứ một cáo buộc nào ráo trọi.
Ngày 20/7/1969, hai phi hành gia Neil Armstrong và Edwin Aldrin đi vào lịch sử như là hai người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng thế nhưng sự kiện này bị một số nhà “lý thuyết âm mưu” lên tiếng phủ nhận. Căn cứ vào những điểm “khả nghi” trong tấm hình chụp Armstrong đứng cạnh lá cờ cắm trên Mặt Trăng, họ quả quyết rằng tất cả chỉ là chuyện dàn dựng và bức hình này chỉ được chụp tại một sa mạc ở Nevada. Nhưng bằng chứng của vụ đổ bộ ấy đâu chỉ duy nhất một tấm hình? Tàu Appollo 11 phóng từ mũi Kennedy trước con mắt hàng chục ngàn người và hàng trăm triệu người qua ống kính truyền hình. Hàng trăm ngàn thước phim quay được và chụp được khi tàu Appollo vờn trên quỹ đạo quanh mặt trăng, cảnh tàu con rời tàu mẹ để đổ bộ, cảnh các phi hành gia đi bộ và cả những túi đất đá mang về từ Mặt Trăng v.v. Chúng ta thấy gì ở đây? Những bằng chứng xác thực thì nặng như núi nhưng, khi đã cố tình không tin, đã cố vạch ra những âm mưu thì chỉ cần mấy điểm khả nghi nhẹ tựa lông hồng.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.