Hôm nay,  

Công Đoàn Ra Trận

19/06/201000:00:00(Xem: 8467)

Công Đoàn Ra Trận
Nguyễn Xuân Nghĩa

Công Đoàn Vào Sân Đá Rách Gôn Nhà...
Khi phong trào đình công tự phát tại Trung Quốc lan rộng, và từ hãng Honda đã bén lửa vào hãng Toyota hôm 15 vừa qua, người ta mới để ý tới vai trò của Tổng công đoàn quốc doanh (Trung Hoa Toàn Quốc Tổng Công Hội - ACFTU), dưới sự lãnh đạo của một Ủy viên Bộ Chính trị, hiện nay là Hoàng Triệu Quốc. Tổng công đoàn vừa có lệnh nhập trận để giải quyết mâu thuẫn về lao động - mà có khi sẽ càng gây thêm mâu thuẫn.
Hãy nhắc lại vài hàng về tổ chức này trước khi nhìn vào kết quả vận dụng của đảng.
***
Trung Hoa Cộng Sản đảng thành lập một nghiệp đoàn từ năm 1925, để gọi là bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân. Thời chiến tranh quốc cộng, nghiệp đoàn giữ trận tuyến kiều vận chống lại chính quyền của Tưởng Giới Thạch. Sau khi Cộng sản chiến thắng tại Hoa lục năm 1949, nghiệp đoàn quốc doanh trở thành vô ích vì đảng và nhà nước nay là "chủ đầu tư" của giai cấp công nhân. Vì vậy Tổng công hội được giải tán năm 1966.
Khi Đặng Tiểu Bình tiến hành cải cách, vai trò của công đoàn được hâm nóng, nhưng chỉ âm ỉ cho tới khi Giang Trạch Dân quyết định sử dụng lại làm công cụ giải quyết các mâu thuẫn lao động... Lần thứ ba mà Tổng công hội thoát xác là sau khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO và phải cải tổ cơ chế kinh tế.
Thoát xác với hai nhiệm vụ mới, đề ra từ năm 2002.
Thứ nhất là kế hoạch "cổ phần hóa" các doanh nghiệp nhà nước bị lỗ lã và phá sản dẫn tới việc sa thải công nhân viên dư dôi. Tổng công đoàn quốc doanh được trao nhiệm vụ cắt giảm cấp số thợ thuyền và tìm việc cho họ. Và báo cáo là đã tìm việc cho hơn ba triệu công nhân trong năm năm liền, một con số thật ra rất nhỏ. Đó là về phần "đối nội".
Về đối ngoại, Tổng công đoàn quốc doanh được chỉ thị phải chú ý tới công nhân viên làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài. Cụ thể là đoàn ngũ hoá công nhân trong các hãng ngoại quốc. Trên lý thuyết là để bảo vệ quyền lợi công nhân trước các chủ đầu tư ngoại quốc. Trong thực tế là để ổn định và hòa giải mọi mâu thuẫn lao động hầu chiêu dụ đầu tư nước ngoài.
Chìm bên dưới là một nhiệm vụ rất cộng sản: Tổng công hội là tai mắt của đảng để thu thập thông tin trong doanh nghiệp ngoại quốc, kể cả thông tin về tình báo kỹ nghệ. Và khi hữu sự thì gây sức ép với các cơ sở kinh doanh này. Chúng ta không nên quên nhiệm vụ này.
***
Nhưng, kinh tế lại có sự vận hành khách quan của nó:
Trung Quốc thiếu nhân công có tay nghề và quá thừa nhân lực trên một thị trường lao động đang có nhiều chuyển động. Quy luật khách quan ấy dẫn tới hiện tượng "dân công" - chữ chính thức của Trung Quốc để nói về làn sóng lao động từ các tỉnh lạc hậu hay thôn quê nghèo túng tiến vào thành thị kiếm sống. Mấy trăm triệu dân đã xiêu dạt từ nơi này qua nơi khác để tìm việc như vậy. Và họ cũng cần được đảng đoàn ngũ hóa, được kiểm soát. Đấy là một nhiệm vụ mới của Tổng công đoàn quốc doanh, được ban bố vào tháng Chín năm 2003.
Nhiệm vụ tế nhị vì đoàn dân công ấy bị bóc lột không phải bởi bọn tư bản xấu xa của quốc tế - họ chưa đủ tiêu chuẩn về tay nghề - mà bởi các cơ sở và doanh gia Trung Quốc làm gia công cho doanh nghiệp ngoại quốc. Họ không có hộ khẩu, gia đình không có quy chế an sinh xã hội hay trợ cấp về gia cư, y tế và giáo dục. Họ nằm dưới quyền sinh sát của đảng viên cán bộ, các chủ hãng xưởng người Hoa co quan hệ với đảng bộ địa phương. Vì vậy, Tổng công hội được thả vào đó để làm áp lực với các đảng bộ và doanh nghiệp hầu phần nào điều tiết được lưu lượng của làn sóng dân công và ngăn ngừa động loạn nếu thành phần này bị bóc lột quá đáng.
Sau khi lên lãnh đạo từ năm 2003, thế hệ lãnh đạo thứ tư - Hồ Cẩm Đào, Ôn Gia Bảo hay Uý Kiện Hành - có thấy ra nhiều bất toàn của chiến lược phát triển được thi hành thời Đặng Tiểu Bình rồi Giang Trạch Dân nên muốn tập trung quyết định kinh tế về trung ương, thay vì để các tỉnh tự động phát triển theo động lực riêng của quyền lợi.
Hiện tượng phát triển trong hỗn loạn và hoang phí như vậy đào sâu dị biệt về lợi tức và nhận thức giữa các địa phương và thành phần giàu nghèo, và gây ra nhiều biến động xã hội có thể dẫn tới động loạn. Bài toán của Bắc Kinh là nếu không điều chỉnh và sửa sai thì xã hội sẽ vỡ đôi vỡ ba. Nhưng nếu không khéo thì đảng lại vỡ đôi, hay vỡ ba, với quyền lực quá lớn của các tỉnh duyên hải miền Đông và miền Nam đang cấu kết với tư bản ngoại quốc làm lệch lạc quốc sách của trung ương.
Lãnh đạo tại trung ương vì vậy chật vật xoay trở với các đảng bộ địa phương, và các đại gia có nhiều thế lực lẫn tiền tài, để hợp lý hóa việc tăng trưởng sao cho công bằng hơn.
Trong cuộc vận động ấy, Tổng công đoàn có nhiệm vụ lập ra một khuôn khổ hợp tác - nền tảng luật lệ về các thỏa ước lao động áp dụng tập thể - cho công nhân và chủ đầu tư. Tổng công đoàn cũng được chỉ thị đẩy mạnh nhiệm vụ "đối tác" với các doanh nghiệp ngoại quốc. Đó là tình hình của các năm 2005-2006, và bối cảnh của các hiệp ước lao động ký kết với các chủ đầu tư Đông Á, như Nam Hàn hay Đài Loan, hoặc... Hoa Kỳ, như hãng Wal-Mart.
Khi chuyện ấy xảy ra, đa số dư luận không để ý tới điều khoản là công nhân trong các hãng xưởng ngoại quốc phải có quyền lập nghiệp đoàn, thực tế là các công đoàn chi nhánh của Tổng công hội. Quyền tự do nghiệp đoàn - lập ra nghiệp đoàn độc lập của thợ thuyền - vẫn chưa có. Trong nỗ lực đoàn ngũ hóa công nhân dưới sự lãnh đạo của đảng, Bắc Kinh tận dụng truyền thông và báo chí quốc doanh: mở chiến dịch công kích chủ đầu tư nước ngoài về điều kiện lao động khắc nghiệt. Nhờ vậy mà đạt kết quả là Tổng công hội có cơ sở trong 30% các doanh nghiệp nước ngoài. Chỉ tiêu là phải đạt 60% vào cuối năm 2006.


Thực tế thì sinh hoạt công khai của các chi bộ công đoàn chỉ là liên hoan vui vẻ vì công nhân không được phép đình công và mọi thỏa thuận với chủ đầu tư nước ngoài đều do "tập thể" ở trên quyết định. Doanh nghiệp ngoại quốc chưa thấy phiền hà gì lắm về bài toán công đoàn này. Nhưng chìm sâu ở dưới là khả năng xâm nhập, nghe ngóng, vận động và khuynh đảo của mạng lưới Tổng công hội. Và của lãnh đạo Bắc Kinh.
Kể thì cũng tinh!
***
Nhưng, một lần nữa, kinh tế lại có sự vận hành khách quan của nó:
Toàn cầu bị nạn suy trầm vào các năm 2008-2009 nên Tổng công đoàn phải nhắm vào ưu tiên khác. Đồng ý với quyết định ngừng tăng lương và sa thải thợ thuyền, công đoàn quốc doanh trở về nhiệm vụ đối phó với nạn thất nghiệp. Khi nạn suy trầm chấm dứt tại Trung Quốc và kinh tế tăng trưởng mạnh cùng với vật giá, công nhân thợ thuyền bắt đầu ý thức được sự thiệt thòi của mình dưới sự toa rập của chủ đầu tư với tổng công đoàn quốc doanh.
Họ bất chấp sự cấm đoán mà đình công, lãn công, bỏ sở và tranh đấu để được đòi tăng lương. Vì Trung Quốc thừa người mà lại thiếu nhân lực có tay nghề chuyên môn, thành phần hiếm hoi này ở trên thế mạnh để đòi mức lương cao hơn, nếu không, họ nhảy việc và đi tìm hãng khác. Trong khi ấy, thành phần công nhân cùng khốn, dân công thiếu tay nghề, thì cũng bất mãn về điều kiện sinh hoạt và lao động của mình. Thấy công nhân trong các hãng xưởng Đài Loan, Nam Hàn, Nhật Bản và cả Hoa Kỳ (thí dụ là sau Wal-Mart tới mạng lưới phân phối của hãng KFC bán gà chiên với thoả thuận tăng lương tại Liêu Ninh, ký kết hôm 17 vừa qua) đều có thoả ước tập thể cho phép tăng lương, họ lăm le nhảy vào cuộc. Phong trào đình công tự phát lan rộng, với sự hưởng ứng của giới trẻ, và có nguy cơ trở thành toàn quốc.
Nên gây vấn đề cho Tổng công đoàn toàn quốc!
***
Trong làn sóng đình công vừa qua, người ta thấy Tổng công hội toàn quốc không đứng cùng thợ thuyền, còn thực tế cản trở công nhân, có khi gây xung đột hoặc làm điềm chỉ cho công an vào dẹp biểu tình. Họ không tin vào lời khuyên giải cí gian ý của tổng công đoàn và tự động đình công.
Phản ứng tự phát này của thợ thuyền nằm ngoài dự liệu của lãnh đạo.
Thật ra nếu các doanh nghiệp ngoại quốc chấp nhận tăng lương thì... cũng tốt thôi vì từ đầu năm Bắc Kinh đã chỉ thị cho các tỉnh phải nâng mức lương tối thiểu bị đông lạnh từ cuối năm 2008 - do nguy cơ tổng suy trầm. Vả lại, việc tăng lương sẽ nâng lợi tức và khả năng chi tiêu của dân chúng, nghĩa là mở rộng thị trường nội địa khi thị trường xuất cảng đang bị thu hẹp và cón có thể suy sụp vì vụ khủng hoảng Âu châu. Nó nằm trong dự tính "tái phân lợi tức" của lãnh đạo.
Tuy nhiên, Bắc Kinh không chấp nhận được loại phản ứng tự phát như vậy!
Đêm mùng bốn Tháng Sáu vừa qua, Tổng công đoàn quốc doanh cấp tốc có chỉ thị mới: mở rộng mạng lưới công đoàn trong các doanh nghiệp cả ngoại quốc và nội địa, lẫn doanh nghiệp có vốn nước ngoài đang hoạt động tại Hong Kong và Ma Cao. Song song, phải đẩy mạnh vai trò đại biểu của tổng công đoàn trong thành phần "dân công".
Kết quả sẽ ra sao" Dễ nói mà khó xử!
***
Thứ nhất, doanh nghiệp ngoại quốc bắt đầu nhìn ra vai trò của công đoàn quốc doanh khi đảng viên cán bộ đòi làm đại diện công nhân để cùng quyết định về chánh sách quản lý lẫn chiến lược phát triển kinh doanh của họ. Phản đòn của họ là dùng lợi ích thuế khóa ở từng địa phương để khai thác mối quan hệ với các đảng bộ địa phương. Nhờ vậy, nhiều địa phương không mấy sốt sắng thúc đẩy việc công đoàn hoá lực lượng thợ thuyền theo chỉ thị của trung ương và Tổng công đoàn. Bây giờ, sau khi phải tăng lương vì áp lực của phong trào đình công tự phát, doanh nghiệp ngoại quốc còn phải mở cửa đón nhận thêm công đoàn quốc doanh thì làm sao làm ăn"
Việc ấy sẽ dẫn tới nhiều tính toán khác về mối lợi đầu tư vào Hoa lục.
Thứ hai, ở cấp khác, các đảng viên cán bộ và doanh nghiệp địa phương cũng không mấy vui vì vai trò xoi mói và khả năng xen lấn của tổng công đoàn quốc doanh vào chuyện làm ăn của họ! Quyết định tăng lương tối thiểu vốn dĩ đã gây sức ép vì bảo mỏng mức lời của các doanh nghiệp địa phương làm gia công cho các đại gia ngoại quốc. Nay tổng công đoàn còn có quyền nhảy vào lãnh đạo lực lượng "dân công" và đòi thêm quyền lợi cho thành phần này thì ngân sách của địa phương và doanh nghiệp sẽ càng hao hụt.
Nghĩa là trận đánh âm thầm giữa trung ương và địa phương sẽ còn tiếp tục, trên một lãnh vực nhạy cảm là thành phần dân công, trên thị trường lao động.
Thứ ba, chỉ thị mới của Tổng công đoàn không có nghĩa là quyền lợi công nhân sẽ được bảo vệ chặt chẽ hơn - thợ thuyền Trung Quốc biết rõ điều ấy. Nhưng nó hàm ý tăng cường vai trò lãnh đạo của đảng trong các công đoàn. Một ách chuyên chính khác trên đầu công nhân. Sở dĩ như vậy vì đại biểu của cho bộ công đoàn không do công nhân bầu ra mà do quyết định của doanh nghiệp sau khi thỏa thuận với lãnh đạo của công đoàn ở trên. Công nhân Trung Quốc bén nhạy nhìn ra sự toa rập giữa đảng và chủ đầu tư - ở trên lưng của họ.
Cho nên họ sẽ không vì vậy mà chấm dứt đình công hay lãn công. Ngược lại, họ càng tranh đấu mạnh hơn.
Chúng ta rất nên theo dõi chuyện này. Nói theo ngôn ngữ túc cầu, trọng tài ngoài biên phải nhảy vào sân đốn giò đội banh của công nhân. Và có khi... đá rách gôn nhà.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.