Hôm nay,  

Trâu Chết Để Da

19/06/200800:00:00(Xem: 8433)
Người Việt Nam có câu "Trâu chết để da, người ta chết để tiếng". Làm chuyện tốt thì được tiếng thơm muôn đời. Làm chuyện xấu thì "trăm năm bia đá cũng mòn, nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ". Ngay như con trâu, sau khi chết, người ta lột da nó để lợp trống. Da tốt thì cái trống bền lâu, đánh lên kêu vang dội. Da xấu thì chỉ ít lâu tang trống bị rách,... đánh không kêu nữa.

Ông Võ Văn Kiệt vừa nằm xuống ở cái tuổi 86. Theo tiểu sử do đảng Cộng Sản Việt Nam cung cấp, thì ông đã "đi theo cách mạng" từ năm 16 tuổi và gia nhập đảng một năm sau đó. Với 69 năm tuổi đảng và trải qua bao biến cố, cùng 2 cuộc chiến tranh ác liệt, mà ông được chết già trên giường bệnh, thì quả là một điều hiếm thấy. Nói theo thuyết nhân quả thì "Phúc phần" nhà ông Kiệt khá lớn, và có thể do tích tụ từ cha, đời ông để lại. Nhưng, không biết kiếp này, phúc của ông có đủ dày, để dành cho con cháu hay cho kiếp sau của ông hay không "

Cho đến nay, ngoại trừ tại 4 nước còn bị cộng sản cai trị là Trung Hoa, Việt Nam, Bắc Hàn và Cuba, thì khắp nơi trên thế giới người ta đều biết rằng, cộng sản đồng nghĩa với độc tài, với phi dân chủ, với tội ác, với khủng bố... Nạn nhân bị các chế độ cộng sản tàn sát đã lên đến cả trăm triệu người. Nhưng, theo truyền thống dân tộc Việt Nam, "nghĩa tử là nghĩa tận", và khác với đảng Cộng Sản Việt Nam, dân ta không gán ép cho tất cả những ai theo đảng cộng sản là tội ác và khủng bố. Vì vậy, tuy ông Võ Văn Kệt đã từng là nhân vật thuộc hàng chóp bu của đảng cộng sản Việt Nam, và đã từng làm thủ tướng, nhưng với một số tư tưởng tiến bộ, so với giới lãnh đạo đương thời; sự ra đi của ông Võ Văn Kiệt đã gây nhiều xúc động trong dân chúng, và số người tự nguyện đưa tiễn ông đến nơi an nghỉ cuối cùng chắc là đông đảo. Đây là một chỉ dấu cho thấy tấm da trâu này cũng dùng được.

Tuy rằng lịch sử sẽ là nơi phê phán tối hậu, nhưng với một khuôn mặt nổi tiếng như ông Võ Văn Kiệt, thì đương nhiên đã có những phê phán về con người của ông từ lúc sinh thời, cũng như ngay sau khi ông vừa nằm xuống. Bởi vậy, bênh cạnh những lời sáo rỗng muộn màng của đảng cộng sản Việt Nam, người ta đã thấy rất nhiều phẩm bình của dư luận về ông, trong lúc Hà Nội còn đang lúng túng, chưa biết loan báo cái chết của ông như thế nào.

Nhìn chung thì dư luận khen cũng lắm, mà chê cũng nhiều. Người ta ca tụng ông Võ Văn Kiệt có công tiến hành "cuộc chuyển giao vĩ đại của một đất nước từ chiến tranh sang hoà bình, từ bao cấp sang đổi mới". Người ta gọi ông là nhà kiến trúc công trình "đổi mới". Là người đã can đảm đương đầu với đám lãnh đạo bảo thủ như Lê Đức Anh, Đỗ Mười... Người ta truyền tụng rằng, vào những năm sau năm 1975, ở cương vị là Bí Thư Thành Ủy Sài Gòn, ông Kiệt đã dũng cảm, đi ngược lại chủ trương của Hà Nội, để cứu đói cho dân Sài Gòn; lúc đó đang cùng cả nước bị thiếu đói vì những chính sách sai lầm của đảng cộng sản Việt Nam. Báo chí ngoại quốc đề cao ông Kiệt khi ở vị trí thủ tướng đã đưa Việt Nam ra khỏi cơn khủng hoảng tài chính, đã khuyến khuyến khích các xí nghiệp tư nhân làm ăn. Đặc biệt là việc ông đưa Việt Nam gia nhập khối ASEAN, vận động Hoa Kỳ bỏ cấm vận và mở bang giao với Hoa Thịnh Đốn. Cùng lúc kêu gọi các doanh nhân nước ngoài vào đầu tư vào Việt Nam. Ông Kiệt được đánh giá là vị thủ tướng năng động hơn hẳn những người tiền nhiệm của ông. Ông cũng được coi là một trường hợp hiếm có trong các nhà lãnh đạo cao cấp, dám tuyên bố công khai chống những sai lầm của hệ thống cộng sản....

Với dư luận Việt Nam, thì bên cạnh những lời khen tương tự, cũng không thiếu những chỉ trích dành cho ông Kiệt. Điểm đặc biệt là, sự phê bình này không chỉ đến từ những thành phần vốn dĩ không ưa cộng sản, mà hầu hết lại đến từ các diễn đàn của giới trẻ có học ở trong nước. Tuổi trẻ Việt Nam rất sòng phẳng, họ kính cẩn nghiêng mình trước sự ra đi của một bậc lão thành cách mạng; nhưng đối với họ, công, tội phải rạch ròi. Tuy ông Võ Văn Kiệt có một số công lao nhất định trong thời kỳ đổi mới, nhưng thực ra đó chỉ là xu thế mà ông buộc phải chạy theo, chứ chẳng phải sáng kiến tài tình nào của ông. Bởi vì, sau khi khối xã hội chủ nghĩa tan rã, để có thể tồn tại, cộng Sản Việt Nam không còn lựa chọn nào khác là phải chuyển hướng. Ông Kiệt cầm quyền ngay vào giai đoạn đó, nên phải nương theo. Cùng lúc đó, ông phải thủ thế, không dám thẳng thắn như ông Trần Xuân Bách, hầu không bị chính cái cơ chế của đảng gạt ra ngoài. Người ta cũng nghi ngờ về thực tâm của ông trong những bài viết hay tuyên bố có tính cách tiến bộ trong những năm gần đây của ông. Bởi vì chính ông là tác giả của nghị định 31/CP, một nghị định vô cùng phản tiến bộ. Đến nỗi sau này, do áp lực của thế giới, chính đảng cộng sản phải huỷ bỏ nó. Trong khi ông Kiệt lại không hề đả động đến lỗi lầm cùng những tai tiếng do nghị định vừa kể của ông gây ra. Bên cạnh đó, tuy ông đưa lời kêu gọi hoà giải giữa những người ở hai chiến tuyến trước đây, nhưng những kêu gọi đó của ông vẫn không ra khỏi lề thói trịch thượng của kẻ thắng ban phát cho người bại, mà ông muốn kêu gọi hoà giải. Điểm quan trọng nhất được vạch ra là, với những hiệp định dâng đất nhượng biển của cộng sản Việt nam cho Trung Quốc, rồì sự xâm lấn bờ cõi của nước đàn anh phương bắc, và sự nhu nhược của Cộng Sản Việt Nam, ông Võ Văn Kiệt đã không hề có lời nào đả động đến sự nhục nhã này. Cuối cùng, mặc dù không bị chỉ trích trực tiếp về sự tham ô nhũng lạm, nhưng người ta cũng đặt nhiều nghi vấn về những tài sản và các cơ sở làm ăn khổng lồ do vợ con ông đứng tên.

Tóm lại, tuy đã có khá nhiều lời khen, tiếng chê đối với ông Võ Văn Kiệt được dư luận đề cập đến khi ông vừa nằm xuống; nhưng chắc chắn là chưa đủ để đánh giá chính xác về con người của ông. Hiện nay có thể còn nhiều điều liên quan đến ông vẫn đang bị Cộng Sản Việt Nam dấu nhẹm. Cũng như có những sự kiện không được đưa ra mổ xẻ tường tận vì sự tế nhị trong lúc tang chế. Nhưng rồi đây lịch sử sẽ vô cùng công bình đối với ông. Và đến lúc đó người ta sẽ biết cái trống lợp bằng miếng da trâu này bền được bao lâu"

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.