Hôm nay,  

Cây Đa Tử Đạo

20/11/200800:00:00(Xem: 10033)

Cây Đa Tử Đạo

Linh Mục Anphong Trần Đức Phương
"Những Cuộc  Bách Hại Không Làm Cho  Giáo Hội Bị Suy Giảm, Nhưng Lại Làm Giáo Hội Được Phát  Triển" ('The Church Is Not Diminished  By Persecutions, But Rather Increased" Thánh Leô Giáo Hoàng).
Cây đa là cây rất quen thuộc ở vùng chúng tôi. Hồi tôi còn nhỏ, tôi cũng thấy ở đầu làng tôi (làng Bối Xuyên, xứ Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) có trồng hai cây đa trên một gò đất lớn ngay lối đi ra cánh đồng trồng lúa. Hai cây đa này được gọi là “Cây Đa Đầu Làng” hoặc “Cây Đa Điền”. Các cụ làng tôi, thuở xa xưa , đã trồng hai cây này để lấy bóng mát cho những người làm ruộng, hoặc các khách bộ hành , đến nghỉ mát vào những buổi trưa mùa hè nóng bức. Sở dĩ các cụ trồng cây đa vì cây đa sống lâu, cành lá rất xum xuê. Hai cây đa đầu làng tôi nghe nói, bây giờ vẫn còn, dù đã già cỗi, sau cả một thế kỷ đứng đó để che bóng mát cho không biết bao nhiêu người, và chứng kiến bao nhiêu những thăng trầm biến đổi của lịch sử làng tôi cũng như của đất nước.
Nói đến cây đa, tôi lại nhớ đến chuyện hồi tôi còn  nhỏ, khi đi xuống xứ Đồng Đội (cách làng tôi chừng 2 cây số) để dự Thánh Lễ hoặc thăm bà con, ba má tôi thường nói đến “Cây Đa Tử Đạo” ở đầu làng Đồng Đội, và nói cho tôi biết là vào thời kỳ các Vua Chúa cấm đạo, có nhiều người Công Giáo ở các nơi bị bắt và dẫn đến chỗ cây đa đó để chịu thiêu sống, tiếng la hét rất thảm thiết; từ đó cây đa được gọi là ‘Cây Đa Tử Đạo’.
Khi đã khôn lớn, tôi lại được nghe nói đến “Khu Bẩy Mẫu” cũng là nơi nhiều vị tử đạo đã bị xử tại đó. “Khu Bẩy Mẫu” nằm bên phải con đường từ Nam Định đi Hà Nội, chỉ cách thị xã Nam Định chừng vài cây số.
Trong Huyện Vụ Bản, Nam Định, có nhiều giáo dân đã bị giết tại Cây Đa Tử Đạo, hoặc “Khu Bẩy Mẫu”; đa số những người bị thiêu sống tại ‘Cây Đa Tử Đạo’ đã chết âm thầm, không xét xử, không ai ghi lại tên tuổi, và thường do nhóm Văn Thân chủ trương. Đặc biệt xứ Xuân Bảng (thường gọi là Kẻ Báng, cách làng tôi chừng 8 cây số) đã có hơn 100 người tử đạo, trong đó có hai vị đã được phong thánh: Thánh Gioan Baotixita Cỏn và Thánh Martinô Thọ.
Tại họ đạo Bối Xuyên (thuộc xứ Đồng Đội) nơi tôi sinh trưởng, thì kính đặc biệt Cha Cố Hương như Thánh Bổn Mạng. Theo như sổ sách và những lời kể của ba tôi, Cha Cố Hương tên thật là Gioan Louis Bonnard, tên Việt Nam thường gọi là Cha Cố Hương. Vào ngày 21 tháng 3 năm 1852, Cha Cố Hương âm thầm đến họ Bối Xuyên để giúp tĩnh tâm Mùa Chay và ban phép Bí Tích ngay tại nhà Ông Nội của Ba Tôi, tức là chính ngay ngôi nhà tôi được sinh ra. Nhà ở ngay bìa làng, đằng trước có một cái ao nuôi cá và trồng rau muống, rau súng. Làng tôi là một làng nhỏ, vào ‘mùa nước’ thì nước ngập chung quanh. Sở dĩ Cha Cố Hương dâng Thanh Lễ và cử hành các phép Bí Tích ở nhà Ông Cố Nội tôi là vì lúc đó làng tôi chưa có Nhà Thờ, và Ông Cố Nội tôi lúc đó làm trùm họ đạo và cũng tham gia vào ban hành chánh trong làng.
Hồi đó, quan Tổng Đốc Nam Định là Trịnh Quang Khanh rất hăng say đi truy lùng và bắt đạo. Quan cho các binh lính đi tìm và  bắt các ‘đạo trưởng’ ẩn núp ở các nơi. Theo như sử sách và lời các cụ trong làng biết chuyện kể lại: hôm đó, khi Cha Cố Hương vừa dâng Thánh Lễ và ban các phép Bí Tích xong, thì nghe tin các quân lính đang bao vây làng. Khi thấy nguy cơ không thể thoát được, Cha Cố Hương đã bảo mọi người cứ giữ mọi sinh hoạt như bình thường, còn Cố một mình đi ra bờ tre và lội nước ra ngoài cánh đồng để quan quân bắt; chủ đích là không để gia đình Ông Cố Nội tôi bị liên lụy vì tội ‘chứa chấp đạo trưởng’. Tuy nhiên, Ông Cố Nội tôi cũng bị bắt đi theo. Cha Cố Hương bị xử trảm tại Khu Bẩy Mẫu, Nam Định vào ngày mùng 1 tháng 5 năm 1852. Ông Cố Nội tôi thì bị chết rũ tù ở Nam Định. Khi tôi còn nhỏ, ba tôi thường kể cho tôi nghe những điều này, và tên tuổi các vị liên hệ đều có ghi trong Gia Phả; tuy nhiên sau này, trong chiến tranh, nhà tôi đã bị ‘lính tây về làng’ đốt phá. Mọi tài sản và các tài liệu của gia đình đều bị thiêu hủy. Rồi gia đình tôi và dân làng phải ly tán, một số di cư vào miền Nam trong cuộc di cư năm 1954.
Nhìn lại lịch sử cuộc bách hại đạo Công giáo ở Việt Nam, chúng ta thấy đã kéo dài bốn thế kỷ. Theo sách “Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, thì ngay từ năm Nguyên Hòa (1533) dưới thời Vua Lê Trang Tôn đã có chỉ dụ ‘cấm đạo Gia Tô’. Như vậy, đạo Thánh Chúa đã được rao giảng tại Việt Nam từ lâu trước đó và số giáo dân đã khá phát triển, nên gây ra những sự ‘kỳ thị tôn giáo’ đưa đến việc triều vua Lê Trang Tôn ra chỉ dụ cấm đạo.


Cuộc bách hại như vậy ở khắp ba miền đất nước, và đã kéo dài từ thời vua Lê Trang Tôn qua đến thời các Chúa Trịnh (miền Bắc) và Chúa Nguyễn (miền Nam), qua thời Tây Sơn, đến các triều đại nhà Nguyễn, có lúc thật hung bạo, có lúc giảm bớt, tùy theo các biến cố thời cuộc lúc đó. Trong triều đại vua Minh Mạng (1820-1841) và Tự Đức (1847 – 1883) thì mạnh mẽ, cùng với phong trào Văn Thân muốn tiêu diệt hẳn đạo Công Giáo tại Việt Nam. Các ‘đạo trưởng’ bị lên án và xử tội. Giáo dân bị khắc hai chữ ‘tả đạo’ trên trán, bị bắt buộc phải bỏ đạo bằng cách phải bước qua Thánh Giá gọi là “quá khóa”. Ai không chịu thì bị bắt và bị xử án. Ngoài ra, các làng Công Giáo bị giải tán, người Công Giáo phải bỏ nhà cửa và mọi tài sản để đi sống trong các làng khác để dễ dàng mất tinh thần đức tin. Chiến thuật đó gọi là ‘Gia Tô phân sát’ (chia  ra và sát nhập vào các nơi khác).
Trong cuộc  bách hại kéo dài như vậy, con số bị sát hại thường được ghi là 130 ngàn người; tuy nhiên, con số thực sự thì lớn hơn, vì nhiều người đã bị giết một cách âm thầm, không đưa ra xử án, thường do nhóm Văn Thân thi hành, không thể ghi lại tên tuổi, như những người bị thiêu sống tại Cây Đa Tử Đạo ở xứ Đồng Đội.
Các vị đã bị đưa ra tòa để xử và kết án thì bị chết nhiều cách khác nhau như chết rũ tù (như thánh Guise Nguyễn Văn Lựu, Thánh Nữ Anê Lê Thị Thành); bị xử trảm (như Thánh Nguyễn Văn Hương, Lê Văn Phụng) ; bị xử giảo (như Thánh Nguyễn Văn Mỹ, Nguyễn Hữu Quỳnh); bị lăng trì (như Thánh Phan Viết Huy, Thánh Bùi Đức Thể) ; bị thiêu sống như Thánh Phêrô Đinh Văn Dũng, Vinh Sơn Dương); bị tra tấn đến chết (như Thánh Đaminh Vũ Đình Tước).
Những vị bị tử đạo thuộc nhiều thành phần khác nhau trong xã hội, làm nhiều nghề nghiệp khác nhau , nam có, nữ có. Có vị đã cao niên, có vị tuổi còn trẻ. Riêng trong 117 vị đã được Tuyên Thánh, ngoài các vị thừa sai ngoại quốc, thuộc Hội Thừa Sai Paris, hoặc Dòng Đaminh, thì các vị người Việt Nam gồm có những vị làm nghề nông (như Thánh Nguyễn Duy Khang, Nguyễn Văn Vinh), làm thợ mộc (như Thánh Phêrô Đa), buôn bán (như Thánh Lê Văn Gẫm), nghề đánh cá (như thánh Đinh Văn Thuận, Thánh Đaminh Toại), làm y sĩ (như Thánh Hoàng Lương Cảnh), quân nhân (như Thánh Đaminh Đinh Đạt, Bùi Đức Thể), hạ sĩ quan (như Thánh Trần Văn Trung, Lê Đăng Thi), làm quan trong triều đình  (như Thánh Hồ Đình Hy, Phạm Viết Khảm, Tống Viết Bường), lý trưởng (như Thánh Nguyễn Huy Mỹ, Gioan Baotixita Cỏn), chánh tổng (như Thánh Vinh Sơn Tường, Phạm Trọng Thìn), trùm họ (như Thánh Nguyễn Văn Lựu, Nguyễn Văn Đắc, Mathêu Nguyễn Văn Phượng), chánh trương (như Thánh Đaminh Nguyên), Thày dạy giáo lý (như Thánh Đoàn Văn Vạn, Nguyễn Văn Mỹ), chủng sinh (như Thánh Tôma Trần Văn Thiện), và nhiều Linh mục thuộc các giáo phận khác nhau. Có những vị đã cao niên (như Thánh Tạ Đức Thịnh, 80 tuổi, sinh năm 1760 tại Thanh Trì, Hà Nội, chịu tử đạo ngày 8-11-1840), có những vị còn là thanh niên (như Thánh Giuse Túc, 19 tuổi, sinh năm 1843 tại Hưng Yên, tử đạo ngày 1-6-1862; Thánh Tôma Trần Văn Thiện, sinh năm 1820 tại Quảng Bình, tử đạo ngày 21-9-1838). Mỗi vị đều có ngày kính riêng vào chính ngày các Ngài chịu tử đạo. Tất cả được kính chung trong toàn thể Giáo Hội vào ngày 24 tháng 11 hàng năm.
Nhìn lại cuộc bách hại đạo Công Giáo tại Việt Nam, cũng như nhớ lại cuộc đời của những vị tử đạo, không phải để chúng ta đem lòng oán hận, kết án; vì chính các vị tử đạo cũng noi gương Chúa Giêsu trên Thánh giá đã xin ơn tha thứ cho những kẻ đã giết Ngài vì lầm lỗi (Tin Mừng theo Thánh Luca 23,34). Nhìn lại cuộc sống của các Thánh Tử Đạo để chúng ta tạ ơn Chúa cho các Ngài đã được ơn Chúa ban để đủ can đảm chịu từ bỏ mọi địa vị, mọi của cải, và chịu mọi cực hình để tuyên xưng Đức Tin nơi Chúa. Xin các Ngài cầu cùng Chúa cho chúng ta luôn được Đức Tin mạnh mẽ để sống xứng đáng con cái Chúa và dòng dõi các Thánh tử Đạo Việt Nam, can đảm chịu mọi thử thách khó khăn trong đời sống đức tin hằng ngày. Xin cho đất nước Việt Nam sớm đến ngày được bình an, hạnh phúc, nhân quyền được tôn trọng, tự do thật sự, nhất là tự do tôn giáo; mọi người sống hòa hợp yêu thương để chung tay xây dựng Quê Hương Việt Nam yêu dấu.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.