Hôm nay,  

Trung Quốc Tam Phân

11/06/200900:00:00(Xem: 7451)

Trung Quốc Tam Phân

Nguyễn Xuân Nghĩa & Việt Long RFA
...Đông hải của Việt Nam mà họ gọi là Nam hải của họ...
Ba chục năm sau khi mở cửa hội nhập với kinh tế thế giới, Trung Quốc vẫn còn gặp một bài toán nan giải là dị biệt quá lớn giữa ba khu vực kinh tế bên trong. Nạn suy thoái kinh tế toàn cầu đang xảy ra lại tác động mạnh vào khác biệt ấy. Mục Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu về hiện tượng mà nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa gọi là "nhất quốc tam kinh" qua phần trao đổi do Việt Long thực hiện sau đây.
Việt Long: Xin kính chào ông Nghĩa. Chương trình kỳ này đề nghị ta cùng tìm hiểu về tình hình kinh tế Trung Quốc với đặc tính riêng trong cơ cấu và những tác động hiện tại của nạn suy thoái toàn cầu. Trong nhiều lần trước, mới nhất là chương trình phát thanh hôm 11 tháng Ba, ông có nói đến nguy cơ động loạn và phân hóa của xứ này. Ông phân tích thế nào để dự đoán vậy"
Nguyễn Xuân Nghĩa: Thưa ông, mọi xã hội con người đều bị chi phối trước tiên và nặng nhất bởi địa dư hình thể của địa bàn sinh hoạt, kế đó mới là các chuyển động chậm như văn hoá hay dân số. Trung Quốc không ra khỏi quy luật ấy mà lãnh đạo hiện nay lại không giải quyết được các bài toán trong cơ cấu nên mới gặp hiện tượng một quốc gia có ba nền kinh tế, hay "nhất quốc tam kinh". Mải lo hội nhập với thế giới bên ngoài, họ không hội nhập được các khu vực với nhau nên mới dễ bị phân hoá, là chuyện thường xảy ra trong lịch sử của xứ này. 
Việt Long: Nếu vậy xin đề nghị là ta đi từ đầu, từ yếu tố địa dư hình thể đã chi phối Trung Quốc.
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Là quốc gia có diện tích đất đai đứng thứ nhì thế giới với dân số gần một tỷ 400 triệu sống trên chín triệu 600 ngàn cây số vuông, Trung Quốc thực ra là một nước nghèo! Mà một phần cũng vì địa dư hình thể đã chia ba xứ này.
- Nếu vẽ một đường tuyến từ đỉnh cao nhất của biên giới với Miến Điện qua thủ phủ Thành Đô của tỉnh Tứ Xuyên lên tới Bắc Kinh và thủ phủ Cáp Nhĩ Tân của Hắc Long Giang thì ta có một "đẳng cao tuyến" về khí hậu. Bên hướng Đông của đường tuyến ra tới biển là khu vực có độ ẩm đủ cao, bình quân trên 36 cm nước mưa một năm, nên trồng trọt được. Khu vực này cũng có ba son sông lớn là Hoàng hà, Dương tử và Châu giang giúp ích cho tiêu tưới và vận tải nên là cái nôi của Hán tộc và là nơi có mật độ dân số cao nhất. Nhưng thật ra, với dân số cả tỷ người thì diện tích canh tác nơi đây lại rất hẹp, chỉ bằng 1/3 diện tích trung bình của thế giới mà lại đang bị thu hẹp dần. Đấy là khu vực thứ nhất, xin tạm gọi là "miền Đông."
- Ở hướng Tây và Nam của đường tuyến ấy là một khu vực khô cằn, khó chuyển vận và chậm phát triển hơn miền Đông. Có thể gọi đấy là khu vực "nội địa", bị khóa trong đất liền, nơi mà người dân đói khổ thường tiến về hướng Đông trù phú để kiếm ăn. Trong lịch sử, tộc Hán không thích sinh sống tại vùng đất mà họ coi là của các dị tộc man rợ, nhưng nhiều biến động lịch sử lại xuất phát từ đấy khi dân chúng nổi dậy tiến về trung nguyên làm cách mạng. Tần Thủy Hoàng hay Vạn lý Trường chinh của Mao cũng làm nên lịch sử nhờ đoàn người chân đất ấy. Chuyện này, lãnh đạo Bắc Kinh tất không quên và rất sợ.
- Nhân đây, xin nói thêm là ngoài tính khoa trương nói phét, sự sợ hãi cũng là một thuộc tính của nền văn hoá Trung Quốc, với kỳ tích là các đợt xây dựng Vạn lý Trường thành, bắt đầu từ thời Chiến Quốc qua đời Tần và nhất là đời Minh sau đó. Đấy là một sự sợ hãi vĩ đại, nổi danh kim cổ và có thể nhìn thấy từ mặt trăng!
Việt Long: Ông có cái lối phân tích đầy nghịch lý khi nói đến sự khoa trương và sợ hãi trong khi thế giới và riêng Việt Nam lại có vẻ như đang hãi sợ khả năng bành trướng của Trung Quốc. Thế còn khu vực thứ ba là gì"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thật ra, lãnh đạo Trung Quốc còn sợ mối nguy xuất phát từ biên ngoại. Đó là theo chiều kim đồng hồ, Cao nguyên Thanh Tạng, Tây Tạng đến Tân Cương, Nội Mông và Mãn Châu, nơi tiếp giáp với các lân bang Ấn Độ, Trung Á, Mông Cổ hay Liên bang Nga. Trong lịch sử, Trung Quốc đã bị tấn công từ hướng đó và dị tộc nhiều lần vào làm chủ Trung Nguyên, từ Hung Nô thời Tần Hán đến Tây Tạng đời Đường, Kim, Liêu, Mông Cổ đời Tống và Mãn Thanh vào đời Minh, cho đến 1911 mới hết. Vì thế, lãnh đạo Trung Quốc hay có phản ứng phòng thủ, thường xua quân tiến chiếm khu vực này để dựng thành vùng trái độn quân sự nhằm bảo vệ văn minh Hán tộc. Có thể gọi đó là khu "biên trấn" mà họ coi là "phiên trấn", nơi có giá trị kinh tế rất thấp mà vai trò an ninh rất cao.
- Bây giờ, bài toán muôn thuở là thống nhất cai trị và phát triển ba khu vực ấy đang thành vấn đề sinh tử vì Trung Quốc mở ra thế giới bên ngoài mà bên trong vẫn thiếu thống nhất. Về kinh tế, mức tăng trưởng không đều của ba khu vực ấy là đáng nói vì khi Bắc Kinh uy hiếp lân bang và khống chế Đông hải thì họ bị mầm loạn bên trong, cứ nghe nói đến tự trị hay ly khai là lại sợ. Đây là ta chưa đề cập đến dị biệt và thậm chí phân hoá Bắc-Nam ở miền Đông là điều đã từng xảy ra trong lịch sử và nay cũng đã manh nha. Có thể là trong một dịp khác....
Việt Long: Khi nói đến "khống chế Đông hải", ông nói đến biển Đông của Việt Nam mà Trung Quốc gọi là Trung Nam hải phải không"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa đúng là Đông hải của Việt Nam mà họ gọi là Nam hải của họ, là Trung Nam hải.
Việt Long: Bây giờ, về mức tăng trưởng không đều thì ta đã có được dữ kiện gì về sự khác biệt đó" 


Nguyễn Xuân Nghĩa: - Từ cả chục năm nay, lãnh đạo Bắc Kinh đã thấy vấn đề phát tác mạnh vì các tỉnh duyên hải tại miền Đông thì bung ra ngoài và tăng trưởng ngoạn mục trong khi nội địa vẫn lạc hậu. Khi lên cầm quyền kể từ năm 2003, thế hệ lãnh đạo thứ tư, như Hồ Cẩm Đào, Ôn Gia Bảo, đã lập kế hoạch hội nhập để san bằng dị biệt mà không xong, và không thể xong với hệ thống chính trị hiện nay vì không là chế độ dân chủ theo thể chế liên bang. Đến bây giờ thì họ vẫn có ba nền kinh tế khác nhau, ít nhiều trùng hợp với ba khu vực chúng ta vừa đề cập tới.
Việt Long: Nếu vậy, xin ông trước tiên trình bày cho thính giả về khu vực miền Đông. Gồm những địa phương nào và sản xuất được bao nhiêu, với loại vấn đề gì"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Trước hết, ta tạm ghi rằng Trung Quốc có bốn thành phố lớn được dựng thành khu vực hành chính trực thuộc trung ương. Kể về dân số từ cao đến thấp thì đó là Trùng Khánh với 31 triệu dân, rồi Thượng Hải 18 triệu rưởi, Bắc Kinh 16 triệu và Thiên Tân 11 triệu rưởi. Sau đó là các tỉnh và khu tự trị. Nếu có một tấm bản đồ tô màu thì ta sẽ rõ hơn dị biệt Đông Tây của họ.
- Khu vực miền Đông gồm có 11 tỉnh và thành với dân số 500 triệu rưởi thì đóng góp 64% sản lượng toàn quốc, với sản lượng GDP bình quân một người khoảng 4.800 đô la. Đó là ba thành phố Thượng Hải, Bắc Kinh, Thiên Tân, và tám tỉnh duyên hải, từ Bắc xuống Nam là Liêu Ninh, Hà Bắc, Sơn Đông, Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông và Hải Nam. Đây là khu vực buôn bán với bên ngoài nên tương đối trù phú nhất, nay cũng bị hiệu ứng nặng nhất của nạn suy thoái kinh tế từ bên ngoài dội vào.
- Khu vực nội địa quy tụ cỡ 450 triệu dân của tám tỉnh, từ Bắc xuống Nam là Hắc Long Giang và Cát Lâm tiếp giáp với Nga và Bắc Hàn, rồi Sơn Tây, Hà Nam, An Huy, Giang Tây, Hồ Bắc và Hồ Nam, thì sản xuất có 26% sản lượng toàn quốc. Sản lượng bình quân một người nơi đây chỉ bằng 60% dân miền Đông, khoảng gần 3.000 đô la một năm.
- Khu vực thứ ba nằm sâu hơn bên trong và bao trùm lên vùng biên trấn mình vừa nói, gồm có 11 tỉnh từ Bắc xuống Nam là Nội Mông, Ninh Hạ, Tân Cương, Thanh Hải, Cam Túc, khu tự trị Tây Tạng, Thiểm Tây, Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây và thành phố Trùng Khánh. Khu vực rộng lớn mà hoang vu này quy tụ cỡ 400 triệu người, có sản lượng chỉ bằng 19% sản lượng cả nước, bình quân thì GDP của một người chỉ bằng phân nửa dân miền Đông.
Việt Long: Qua sự trình bày vừa rồi thì ta thấy ngay vấn đề dị biệt về lợi tức của người dân. Hẳn là bên dưới còn nhiều vấn đề khác nữa, xin đề nghị ông phân tích thêm cho rõ hơn.
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Trên đại thể thì khác biệt về lợi tức dân cư tại Trung Quốc thuộc loại cao nhất trong các nước tân hưng Đông Á, còn cao hơn các nước công nghiệp phương Tây vốn mang tiếng là cạnh tranh và đào thải quá mạnh. Thứ nữa, sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị hay xảy ra ở các nước thì tại Trung Quốc lại còn nặng hơn nữa. Thứ ba, vì đặc tính địa dư hình thể ta nói từ đầu, các tỉnh miền Đông đã đô thị hoá nhanh hơn miền Tây và hướng ra ngoài nhiều hơn nên càng đào sâu dị biệt giữa thành thị và thôn quê và giữa khu vực hướng ngoại với bên trong. Thí dụ như lợi tức dân Thượng Hải - là thành phố và buôn bán với bên ngoài nên giàu có nhất - lên tới hơn 10.000 đô la một năm, gấp tám người dân Quý Châu bị khoá trong đất liền. Mà dân Quý Châu, Cam Túc hay Ninh Hạ nay đã hiểu ra điều ấy và tất nhiên là họ không vui.
- Kết cuộc từ địa dư hình thể qua kinh tế thì các tỉnh bên ngoài chú trọng vào dịch vụ và công nghiệp chế biến trong khi các tỉnh nội địa thì xuất cảng lao động qua tỉnh khác hoặc khai thác tài nguyên khoáng sản, là sản xuất ra sản phẩm sơ đẳng hay thương phẩm. Và trong khi cả nền kinh tế lệ thuộc mạnh vào thị trường bên ngoài vì chiến lược hiện hành thì các tỉnh miền Đông lệ thuộc hơn các tỉnh nội địa vào thị trường bên ngoài khoảng hai chục lần. Khi thương phẩm lại sụt giá nặng từ năm ngoái thì trong ngoài gì đều cùng thấy khổ và ở trên thì sợ bị loạn!
Việt Long: Vì thời giờ có hạn, xin hỏi ông câu hỏi cuối là lãnh đạo Bắc Kinh xử trí ra sao trước vấn đề ấy"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Từ năm năm nay, Bắc Kinh cố san bằng dị biệt như tái phân đầu tư và lợi tức cho các tỉnh nội địa nhưng lại gặp sự cản trở của đảng bộ các tỉnh thành duyên hải. Họ đòi duy trì đà tăng trưởng cao và tỷ giá đồng bạc thấp để xuất khẩu bằng mọi giá trong khi lãnh đạo ở trên thì chú trọng đến thị trường nội địa và vấn đề xã hội, nhất là khi phong trào ly khai Hồi giáo bùng nổ tại Tân Cương. Vì vậy mà lãnh đạo đòi tập trung quyền lực về trung ương, biểu dương khí thế Hán tộc nhuốm mùi bài ngoại, và mâu thuẫn "trong-ngoài" về kinh tế dẫn tới mâu thuẫn "trên-dưới" về chính trị.
- Đúng lúc đó thì kinh tế Trung Quốc bị suy trầm, rồi nạn suy thoái toàn cầu làm thị trường xuất khẩu co rút nên các tỉnh miền Đông sống nhờ bán hàng ra ngoài càng khó san xẻ với bên trong. Còn các tỉnh bên trong sống nhờ tài nguyên khoáng sản thì cũng bị nạn vì thương phẩm sụt giá toàn cầu. Trong khi ấy, khoảng 150 triệu người dân từ tỉnh này đi kiếm sống ở tỉnh khác nay sợ thất nghiệp nên phải về quê và nơi nơi bùng nổ động loạn.
- Với dự trữ ngoại tệ trị giá 2.000 tỷ đô la, Bắc Kinh không thể có giải pháp đồng dạng áp dụng chung cho toàn quốc mà lại có biện pháp bất thường. Thí dụ như họ vừa quyết định dùng 1/4 ngân khoản kích cầu trị giá tương đương 585 tỳ đô la cho riêng tỉnh Tứ Xuyên. Việc kích thích kinh tế đã tính từ tháng 11 mà nay mới lật đật rót vào Tứ Xuyên vì xứ này bị động đất từ năm ngoái và có khi bị loạn, mà tỉnh này tiếp cận với khu vực phiên trấn ở hướng Tây và có một cộng đồng Tây Tạng rất đông, đang đòi quyền tự trị nên bị đàn áp rất nặng. Chúng ta sẽ còn có dịp trở lại đối sách kinh tế của Bắc Kinh và sự sợ hãi truyền thống của Trung Quốc...
Việt Long: Xin cám ơn ông Nguyễn Xuân Nghĩa.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.