Hôm nay,  

Kinh Tế An Độ

21/01/201000:00:00(Xem: 11923)

Kinh Tế An Độ

Nguyễn Xuân Nghĩa & Thanh Quang RFA

...Ấn Độ mà vượt Trung Quốc thì chủ yếu là do chính trị dân chủ...
Trong mấy ngày đầu năm và sau vụ suy trầm toàn cầu, một số nhà nghiên cứu cho rằng kinh tế Ấn Độ sẽ sớm bắt kịp và vượt qua Trung Quốc nội trong thập niên này. Trong khi thế giới còn nói đến tốc độ tăng trưởng kỷ lục của Trung Quốc, dự báo nói trên về Ấn Độ có thể khiến chúng ta quan tâm, chú ý. Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu vấn đề này qua phần trao đổi cùng nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa do Thanh Quang thực hiện sau đây.
Thanh Quang: Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Á Châu ngoài Nhật Bản hiện đang có hai nền kinh tế gần như là ở hai lục địa khác nhau và bị chia cách bởi rặng núi Hy Mã Lạp Sơn. Đó là nền kinh tế Trung Quốc tại Đông Á nhìn ra Thái Bình dương và nền kinh tế Ấn Độ tại tiểu lục địa Nam Á trông xuống Ấn Độ dương. Sự cạnh tranh mặc nhiên của hai quốc gia đông dân nhất thế giới và cùng có nền văn minh cổ xưa nhất của nhân loại đã khiến nhiều người chú ý.
Trung Quốc khởi sự cải cách kinh tế từ năm 1979, 30 năm về trước, còn Ấn Độ thì mới chỉ chuyển hướng từ năm 1991, gần 10 năm sau và Trung Quốc đang dẫn đầu với đà tăng trưởng rất cao. Tuy nhiên, một số nhà quan sát quốc tế lại cho rằng Ấn Độ sẽ bắt kịp và vượt xa Trung Quốc trong vòng mươi năm nữa, tức là nội trong thập niên thứ hai của thiên niên kỷ thứ ba. Vì những yếu tố đó, Diễn đàn Kinh tế kỳ này sẽ tìm hiểu về Ấn Độ và xin đề nghị ông trình bày cho bối cảnh của vấn đề để thính giả có thể so sánh.
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng quốc gia nào cũng bị thiên nhiên chi phối trước tiên do địa dư hình thể của nơi sinh sống. Sau đó điều kiện này mới dẫn đến các tập quán được đa số chia sẻ, rồi dần dần thành hình một bản sắc văn hoá đặc thù và sẽ ảnh hưởng tới các quyết định sinh tử về an ninh, chính trị và kinh tế.
- Trong tinh thần ấy, ta cần thấy rằng Ấn Độ tại tiểu lục địa Nam Á là một hải đảo biệt lập trong ý nghĩa là được chia cách với bên ngoài. Nhìn theo chiều kim đồng hồ từ Đông sang Tây thì xứ này được bao vây bởi ba mặt biển và bốn rặng núi. Về biển thì đó là Vịnh Bengal, là Ấn Độ dương và Biển Á Rập dẫn qua Trung Đông và Âu Châu. Về núi rừng thì từ Đông sang Tây lên phía Bắc, Ấn Độ cũng được bao che bởi các rặng Ghats miền Đông và miền Tây ở vùng duyên hải, rồi sa mạc Thar và rặng Indu Kush bên Pakistan; lên phía Bắc thì có dãy Hy Mạ Lạp Sơn, hay Hymalaya, trải rộng từ Tây qua Đông, về tới biên giới với các nước Nepal, Bhutan và Trung Quốc. Ở bên trong, tiểu lục địa này sinh sống và phát triển nhờ các con sông lớn như sông Indus bên Pakistan, sông Hằng tại hướng Đông tiếp cận với Bangladesh và nhiều con sông khác ở phía Nam. Vì địa dư hình thể ấy, Ấn Độ khó bành trướng ra ngoài thành một đế quốc xâm lược, mà ngược lại, thường chú trọng đến việc chung sống và bảo vệ tiểu lục địa ở bên trong.
Thanh Quang: Đó là về địa dư hình thể, còn về an ninh, chính trị và văn hoá thì sao"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Mặc dù đã bị Hồi giáo từ hướng Tây đến chiếm đóng và cai trị từ thế kỷ thứ 11 đến 18, Ấn Độ vẫn tìm ra phương thức và thể chế dung hòa để các cộng đồng có thể sống chung. Một lý do là Hồi giáo khi ấy không có nhu cầu cải đạo và đồng hóa dân theo Ấn Độ giáo mà chỉ tìm nguồn lợi kinh tế. Khi Tây phương và Đế quốc Anh bước vào thì cũng theo đường của Hồi giáo và áp dụng một chính sách tương tự, là để các sắc tộc nội địa sinh sống và xử trí với nhau chứ không xen lấn và đồng hóa. Với Đế quốc Anh, Ấn Độ là một mắt xích quan trọng cho một chuỗi thuộc địa trải dài từ Tây qua Đông, từ eo biển Gibraltar qua kênh đào Suez đến Ấn Độ dương và tới eo biển Malacca tại Đông Nam Á.
- Đế quốc Anh bị tàn lụi từ Thế chiến II và phải rút về thì Ấn Độ vẫn giữ nguyên vẹn hình thái sinh hoạt đa nguyên và thật sự là dân chủ ở bên trong, mặc dù thường xuyên gặp vấn đề với cộng đồng Hồi giáo rất đông, lại có hai quốc gia Hồi giáo vây ở hai bên là Pakistan và Bangladesh. Điểm đáng chú ý nhất của văn hoá và xã hội xứ này là tinh thần bao dung bên trong và sự kháng cự có tính chất thụ động và có vẻ bất bạo động đối với bên ngoài. Trong cuộc đấu tranh giành độc lập từ Đế quốc Anh, ông Thánh Mahatma Gandhi đã áp dụng triết lý bất bạo động ấy cho tới thành công. Ngoài ra, và khác với Việt Nam thời thực dân Pháp, Ấn Độ có kế thừa một bộ máy hành chính hữu hiệu hơn cho một lãnh thổ thật ra mênh mông bát ngát.
Thanh Quang: Trước khi chuyển qua đề mục kinh tế, xin hỏi ông thêm một câu về nước láng giềng của Ấn Độ là Trung Quốc. Hai quốc gia này khu xử với nhau như thế nào"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Hai xứ này tiếp giáp với nhau trên đỉnh Hymalaya và đã từng xung đột vào năm 1962. Nhưng trên cao độ hiểm trở ấy, cả hai đều không có lợi và chẳng có khả năng gửi quân lên để vượt núi qua bên kia. Còn lại, Ấn Độ đón nhận cộng đồng Tây Tạng lưu vong và yểm trợ vị lãnh đạo tinh thần của Phật giáo Tây Tạng là đức Đạt Lai Lạt Ma, trong khi Trung Quốc xây dựng và tiếp vận các nhóm phiến quân theo chủ nghĩa Mao tại Ấn Độ và Nepal.


- Chính mối đe dọa của Trung Quốc khiến Ấn Độ liên kết với một xứ ở xa là Liên bang Xô viết và cũng do liên minh ấy mà Ấn Độ áp dụng chế độ kinh tế tập trung theo kiểu xã hội chủ nghĩa làm cho kinh tế không phát triển và chỉ có tham nhũng là lây lan. Khi Liên Xô tan rã năm 1991 thì cũng là lúc Ấn Độ chuyển hướng kinh tế để ra khỏi chế độ bao cấp và tiến dần vào kinh tế thị trường. Bên trên hệ thống kinh tế ấy vẫn là chế độ dân chủ chính trị và sau khi phe bảo thủ đổi mới kinh tế rất mạnh rồi thất cử vì những xáo trộn trong đời sống do việc đổi mới này gây ra, đảng Quốc đại đã thắng cử. Dù theo xu hướng thiên tả, đảng này vẫn tiếp tục việc cải cách kinh tế cho thông thoáng hơn và kinh tế Ấn Độ đã có nhiều thay đổi. Trong vụ tổng suy trầm toàn cầu vừa qua, xứ này bị hiệu ứng nhẹ và bung lên rất sớm với tốc độ tăng trưởng là 8%, tức là rất cao. Với tốc độ ấy, sản lượng xứ này sẽ tăng gấp đôi mỗi chín năm. Đến cuối tháng này mà Ngân hàng Trung ương Ấn Độ có xiết lại hệ thống tiền tệ vì kinh tế đã ra khỏi suy trầm thì ta chẳng nên ngạc nhiên. Nói chung, dư luận chỉ chú ý tới thành tích Trung Quốc mà ít để ý tới Ấn Độ vì theo kiểu thụ động cố hữu của họ, xứ này ít có thói khoa trương tuyên truyền như Trung Quốc.
Thanh Quang: Chúng ta đi tới câu hỏi chính, thưa ông, nhiều trung tâm dự báo kinh tế đã nói đến việc Ấn Độ có thể bắt kịp Trung Quốc trong thập niên này, ông nghĩ sao về lời tiên đoán ấy"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Trước hết, ta nên xác định thế nào là bắt kịp, về phương diện gì chẳn hạn.
- Nếu tính theo sức mua thực tế của đồng bạc -là tỷ giá mãi lực gọi tắt là PPP- thì sản lượng kinh tế Ấn Độ hiện đứng hàng thứ tư thế giới, sau Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản. Sản lượng ấy của Ấn sẽ sớm vượt Nhật Bản trước khi tranh đua với Trung Quốc trong những năm tới. Tuy nhiên, ta không quên rằng dân số Nhật chỉ có gần 130 triệu, so với một tỷ 200 triệu dân Ấn nên lợi tức bình quân một đầu người của Nhật tất nhiên vẫn còn cao hơn Ấn rất xa.
- Nói về dân số thì dân số Nhật Bản đã bị lão hóa, thành phần sản xuất ngày càng giảm, dân số Trung Quốc cũng bắt đầu như vậy sau mấy chục năm theo đuổi chính sách mỗi gia đình chỉ có một con. Trong khi ấy, dân số Ấn sẽ còn tăng và trong số này thành phần có tay nghề và biết Anh ngữ sẽ chiếm một tỷ trọng lớn hơn. Ấn Độ sẽ vượt Trung Quốc về dân số, chuyện đáng nói là sẽ vượt cả về phẩm chất. Trong một thế giới mà kiến thức sẽ quyết định về kinh tế mạnh hơn bắp thịt, Ấn Độ vẫn có triển vọng cao hơn.
- Thứ ba, Trung Quốc theo chiến lược xuất khẩu để phát triển và thị trường xuất khẩu co cụm trong những năm tới sẽ kiềm hãm đà tăng trưởng của xứ này, trong khi Ấn Độ không bỏ rơi thi trường nội địa rất lớn của mình nên vẫn còn trớn để giữ nhịp độ tăng trưởng rất cao như hiện nay - và có thể lên đến 10% - trong cả chục năm nữa. Tức là sản lượng tăng gấp đôi mỗi bảy năm.
- Thứ tư, Ấn Độ có những khu vực công nghệ tiên tiến và sẽ là nơi tiếp nhận chuyển giao công nghệ và đầu tư từ bên ngoài ngày càng nhiều hơn, rồi từ đó sẽ tìm ra nhiều giải pháp đột phá cho công nghiệp và năng lượng hầu giải quyết những ách tắc mà Trung Quốc chưa ra khỏi trong tiến trình công nghiệp hoá của mình. Cũng phải nói thêm rằng Ấn Độ có diện tích canh tác cao hơn trên nhiều khu vực đất đai phì nhiêu hơn để có thể nuôi sống dân số của mình.
Thanh Quang: Mới chỉ kể ra một số lãnh vực thì người ta thấy Ấn Độ quả là cũng có nhiều lợi thế đáng kể. Tuy nhiên, xin hỏi ông là xứ này có bị nạn khủng bố của các lực lượng Hồi giáo cuồng tín, điều ấy có cản trở nỗ lực phát triển của họ không"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Chính là hiện tượng khủng bố mới càng làm nổi lên ưu thế của Ấn Độ!
- Xứ này quả là có bị nạn khủng bố, chưa kể cái ngòi khủng bố tại đất Kashmir đang tranh chấp với Pakistan và ngay tại xứ Pakistan xâm nhập vào. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà Ấn ban bố tình trạng thiết quân luật hay khoanh vùng kiểm soát và đàn áp cộng đồng Hồi giáo ở bên trong. Ấn Độ đủ rộng lớn, có dân số đủ đông để kinh tế chịu đựng được nạn khủng bố và chính là thế chế dân chủ đa nguyên của họ mới gỡ ngòi nổ khủng bố. Trong khi ấy, chế độ độc tài và chính sách kỳ thị sắc tộc của Trung Quốc mới tích lũy những bất mãn sẽ dẫn tới bạo động và phản ứng ly khai. Trên một lãnh thổ có quá nhiều dị biệt mà chế độ độc đảng không thể dung hoà hay san bằng được, Trung Quốc mới dễ bị loạn và có thể vỡ thành nhiều mảnh. Ấn Độ thì không.
Thanh Quang: Câu hỏi cuối thưa ông, theo những phân tích vừa rồi, ông cũng tin rằng Ấn Độ sẽ vượt qua Trung Quốc"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi xin được trả lời bằng nhận định của một kinh tế gia thuộc bậc thầy của nhiều kinh tế gia thời nay là Giáo sư Milton Friedman, Giải Nobel Kinh tế năm 1976. Trước khi tạ thế vào cuối năm 2006, đại để ông so sánh như sau về hai quốc gia này: "Trung Quốc có chế độ chính trị tập trung trên một nền kinh tế được tiệm tiến giải phóng nên có đạt một số thành quả ban đầu, nhưng sẽ bị khủng hoảng vì tự do kinh tế không thể đi cùng chính trị độc tài. Ấn Độ thì có chế độ chính trị dân chủ trên một nền kinh tế tập thể, nay họ đang giải phóng kinh tế và nhờ đó sẽ giải phóng mọi quyền tự do và vì vậy sẽ có vị trí tốt đẹp hơn Trung Quốc." Nhìn như vậy, Ấn Độ mà vượt Trung Quốc thì chủ yếu là do chính trị dân chủ sẽ tìm ra giải pháp kinh tế tốt đẹp nhất cho đa số mà không bị loạn.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.