Hôm nay,  

Thời Gian Và Ưu Tiên

30/03/201000:00:00(Xem: 5394)

Thời Gian Và Ưu Tiên

Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng
Thời gian là một thứ tài nguyên không thể thiếu nhưng lại vô cùng hiếm hoi. Làm gì cũng phải có thời gian, và ngay cả không làm gì thì thời gian vẫn lừng lững trôi đi. Thời gian hiếm hoi vì chỉ có tiêu đi chứ không vun bồi thêm được. Đối với thời gian, chúng ta không thể co dãn, tích luỹ hay để dành, cho vay hay đòi lại. Chính vì vậy mà tôi không xem thời gian là một thứ “vốn”, vì nếu là vốn thì có thể đầu tư dể tăng trưởng. Thời gian không thể tăng trưởng.
Với hai đặc tính trên, thời gian thường là yếu tố hạn chế của mọi công việc, kế hoạch, chương trình. Trong quy tắc của công nghệ sản xuất, tài nguyên hiếm hoi nhất quyết định số lượng thành phẩm. Chẳng hạn, một xưởng lắp ráp xe hơi chỉ có 20 ngàn bánh xe thì dù có dư thừa mọi thứ vật liệu khác thì cũng chẳng thể sản xuất quá 5 ngàn chiếc xe. Do sự hiếm hoi nhưng lại luôn luôn cần thiết của nó, nếu muốn đạt hiệu quả thì chúng ta phải biết quản lý thời gian.
Bước căn bản nhất để quản lý thời gian là đặt ưu tiên cho công việc-ưu tiên càng cao thì lượng thời gian phân bổ vào đấy phải càng nhiều. Theo một số cuộc nghiên cứu, nếu có trên ba ưu tiên cùng một lúc thì hiệu quả hầu như là con số không, vì như vậy không ưu tiên nào thực sự là ưu tiên.
Trong hoàn cảnh của những người Việt tị nạn, chúng ta có trách nhiệm ba chiều: đối với cộng đồng, đối với xã hội đang định cư, và đối với Việt Nam; do đó chúng ta cần chọn ưu tiên để sao cho tròn trách nhiệm với cả ba. Một cách để không bị tản lực và mất hiệu quả là chọn một ưu tiên chính và hai ưu tiên phụ. Trong sách lược 10 năm tôi đề nghị thì xây dựng nội lực và thế đứng cho cộng đồng là ưu tiên hàng đầu vì nó sẽ bổ trợ cho hai ưu tiên kia. Phát triển thế và lực cho cộng đồng Việt cũng là xây dựng hậu phương vững mạnh cho những nỗ lực nhằm thay đổi Việt Nam và cũng sẽ tự động đóng góp cho xã hội và củng cố nền dân chủ của quốc gia định cư.


Trong 35 năm qua, như một tập thể chúng ta đã không đặt ưu tiên rõ ràng cho hành động nên hoạt động thiếu trọng tâm, dẫn đến tình trạng rối hoảng, phản ứng trước biến cố, đối phó với hậu quả, và bị động. Tình trạng này rất rõ trong các sinh hoạt đấu tranh cho nhân quyền ở Việt Nam. Cộng đồng Việt ở hải ngoại đã phản ứng trước những biến cố “nóng” như Thái Hà, Tam Toà, Bầu Sen, Đồng Chiêm, Bát Nhã… Đó là chưa kể những vụ bắt bớ hàng trăm nhà đấu tranh cho dân chủ. Vì chỉ phản ứng nên việc làm thiếu bề sâu về nội dung và chiều dài về sách lược. Lực đã ít lại bị chia ra lắt nhắt--việc này chưa xong thì phải bỏ dở để đối phó với việc mới xảy ra, không việc nào đến nơi đến chốn.
Không những vậy, chúng ta lại chểnh mảng đối với nhu cầu xây dựng, củng cố và phát triển cộng đồng.  Như phân tích ở trên, đây lẽ ra phải là ưu tiên hàng đầu vì cộng đồng có nội lực và thế đứng ở quốc gia định cư chính là căn bản cần thiết cho những nỗ lực vận động có bề sâu và chiều dài nhằm thay đổi Việt Nam. Đó là chưa kể trách nhiệm chúng ta phải có đối với đồng bào đang khốn khó ở ngay trong cộng đồng gần gũi của chúng ta.
Trong 10 đến 15 năm tới đây, chúng ta có cơ hội để chuyển biến cộng đồng và thay đổi Việt Nam. Muốn tận dụng cơ hội ấy chúng ta cần tập trung năng lực và tài nguyên vào một ít trọng tâm nhất định trong một thời gian đủ dài. Trong sách lược 10 năm gởi đến cộng đồng, tôi đưa ra 4 trọng tâm để xây dựng nội lực và thế đứng cho cộng đồng và bốn trọng tâm để thay đổi Việt Nam. Tôi đề nghị mỗi người chọn không quá hai trọng tâm cho thời gian từ 3 đến 5 năm tới: một đối với cộng đồng và một đối với Việt Nam. Sau khi chọn trọng tâm để theo đuổi, chúng ta cần nhắc nhở nhau tránh “xé rào”, nhẩy từ việc này sang việc khác.
Được vậy, chúng ta có hy vọng sẽ hoàn thành trách nhiệm đối với đồng bào, dân tộc, và xã hội.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi đối với cha mẹ có thể cung kính mà vui vẻ, mới là tận Hiếu. Chữ “Kính” nhấn mạnh việc không để xảy ra sơ suất dù rất nhỏ, phụng dưỡng cha mẹ già xuất phát từ nội tâm, với khuôn mặt vui vẻ, mới có thể nói là “Hiếu.” Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn. Con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.