Hôm nay,  

Rớt Mồng Tơi

02/10/200800:00:00(Xem: 14842)
Nói về “Nghèo,” tiếng Việt có nhiều chữ cực đoan để diễn tả: Nghèo rớt mồng tơi, nghèo tận mạng, bần chí tử, nghèo sặc gạch, nghèo sát đất…, nghèo khạc ra tro, nghèo ho ra máu… Riêng thành ngữ tượng hình “nghèo rớt mồng tơi” được dùng khá rộng rãi.  Tự điển Thành ngữ và Tục ngữ Việt Nam (của nhà xuất bản Văn Hóa) giải nghĩa “nghèo rớt mồng tơi” là “nghèo đến cùng cực.”  Thành ngữ này được dùng nhiều nhất ở miền Bắc Việt Nam vì ở nông thôn miền Bắc, các cửa ngõ, hàng rào thường hay trồng rất nhiều giây mồng tơi.  Đây là một lọai rau dễ mọc, dùng cho nhà nghèo.  Dân nghèo đi làm ruộng về, không có tiền mua thịt cá, chỉ cần bắt vài con cua, con cáy ở đồng; khi về nhà, ra ngõ vơ một nắm mồng tơi là có được một nồi canh cho bữa cơm thường ngày của nhà nông.  Rau mồng tơi có nhiều nhớt (người Bắc còn gọi là “rớt”) vì vậy “rớt mồng tơi” được dùng để chỉ sự nghèo khổ của ngưới Việt (nhất là ở miền Bắc).  Thi sĩ Nguyển Bính đã có lần thi vị hóa cái sự “mồng tơi xanh rờn”  trong bài “Cô Hàng Xóm” để tả sự đơn giản, môc mạc của tình cảm dân nông thôn Bắc việt. 

Đến đây kể cũng bàn lọan tạm đủ về chuyện mồng tơi.  Để khỏi lạc đề, mục đích của bài này là bàn về “sự nghèo” chứ không phải thực phẩm rau canh mồng tơi!

Cuộc sống có rất nhiều chuyện để quan tâm.  Nhưng trên phương diện thực tiễn, đa số mọi người đều thấp thỏm về hai vấn đề giầu và nghèo.  Thật lòng, ai cũng muốn giầu chứ có ai muốn nghèo"  Giầu thường đi đôi với sang trọng (giầu sang!) xung túc.  Giầu được kính nể, được mọi người chú ý săn đón…  trong khi nghèo thì đi với khổ (nghèo khổ!) thiếu thốn, bị mất đi hay thiếu những vật chất cần thiết tối thiểu để cho cuộc sống có ý nghĩa như cơm áo, nước uống, chỗ ở... chưa kể các cơ hội được đi học, tình trạng tâm trí căng thẳng rụt rè lo âu.  Nghèo đến rớt mồng tơi đâm ra hèn mọn, bị khi dễ, chí đỏan, bị đời bỏ rơi khinh miệt…  Giầu ở hang hốc cũng có người tìm đến; nghèo đứng giữa chợ đông người cũng chẳng có ai để ý ngó ngàng… 

Như đã thấy, nghèo không chỉ có đơn gỉan một định nghĩa mà là sự tập hợp của cả trăm cách khác nhau.  Thí dụ: 

Nghèo vì không có thực phẩm để ăn

Nghèo vì không có nước để uống

Nghèo vì không có nhà ở

Nghèo vì không có phương tiện y tế

Nghèo vì không có tiền

Nghèo vì bị bỏ rơi, quên lãng,

Nghèo vì thiếu học, thiêu giáo dục

Nghèo vì đông con

Nghèo vì không có công việc làm hay không có đất để cày cấy trồng trọt

Thôi! Tạm thời “Nghèo” được định nghĩa là: “sự thiếu thốn các vật chất cần thiết của đời sống.”  Còn “người Nghèo” là: “người không có hay không đủ khả năng để tự tìm ra các phương tiện vật chất cho đời sống.  Nếu họ vẫn sống hoặc vẫn tồn tại thì họ cần phải trông cậy vào sự giúp đỡ hay nhờ vào tài nguyên, lòng từ thiện của người khác.”

Nghèo đã thiếu ăn thiếu mặc là một chuyện mà lại bất lực, không có tiếng nói (có muốn nói cũng chẳng ai nghe), bị lệ thuộc, bị đối xử nhục nhã.

Biết sự nghèo là khổ như vậy, nhưng không phải cứ muốn giầu là được! Không có ai muốn nghèo.  Cái nghèo không được mời, nhưng nó cứ đến với mọi người một cách “vô tư…” ngòai ý muốn, chạy nhanh cách mấy cũng không thóat!

Các tờ bao kinh tế tài chánh, thí dụ như Forbes…, thỉnh thỏang vẫn hay liệt kê danh sách những người giầu nhất kèm với trị giá tài sản mà họ đang  có.  Không thấy ai, báo chí nào lập ra danh sách tương tự như vậy cho người nghèo; bởi vì, cũng dễ hiểu, lập danh sách người nghèo cho đến khi nào mới xong"  Người nghèo có cái gì cụ thể để mà đo và đếm" 

Phân tách vấn đề giầu nghèo của đời người cũng không phải là chuyện dễ dàng.  Nhiều lúc giầu và nghèo luân chuyển với nhau như bánh xe luân hồi: Giầu có thì hoang phí.  Hoang phí hết tiền của sinh ra nghèo. Nghèo sống cần kiệm chăm chỉ.  Cần kiệm chăm chỉ trở thành giầu có…

Trong khuôn khổ bài nhận định này, một cách chủ quan, tôi sẽ tìm cách phân tách nguyên do và hòan cảnh của sự nghèo khó của người mình và để cố gắng nêu ra (cũng lại chủ quan) một vài giải pháp khả dĩ.  Nếu có gì sơ xuất thì xin quí vị quan tâm bổ túc thêm.

Nguyên nhân nghèo

Tại sao nghèo"  Có nên trách người dân nghèo vì chính họ làm cho họ nghèo"  Hay là trách cái chính phủ ngu dốt đã theo đuồi các chính sách hại dân hại nước; chính sách đắp mô trên sự nghiệp thăng tiến của dân tộc"  hay vì lý do nào khác nữa"

(Oái ăm là nếu các cơ sở nhân đạo trên tòan thế giới lấy tất cả số tiền mà họ tài trợ cho các công cuộc nghiên cứu về nguyên do “nghèo đói” đem giúp đỡ thẳng cho người nghèo; thì nửa số người nghèo đã bớt nghèo rồi!!!) 

Về nguyên do, sự nghèo có thể được tạm phân lọai thành 2 nhóm như sau:

- Nghèo vì tự chính bản thân mình: Người lười biếng, thích chơi và ngủ hơn làm việc; nghèo vì ham cờ bạc, nghiện ngập, thích tiêu xài hoang phí…

- Nghèo vì hòan cảnh bên ngòai: Chính quyền ngu muội, dã man, tham nhũng sách nhiễu, lạm dụng bóc lột, làm sưu cao thuế nặng, kinh tế lạm phát, thất nghiệp, thời tiết, thiên tai, bệnh tật...

Ngân hàng thế giới lại phân người nghèo ra thành 2 thể lọai căn cứ vào đồng đô la:

- Nghèo rớt mồng tơi (extreme poverty) là lọai người sống với dưới 1 đô la mỗi ngày (US$ per person)

- Nghèo vừa vừa (moderate poverty) là lọai người sống với dưới 2 đô la mỗi ngày.

Nhìn vào nước Việt Nam qua lợi tức bình quân trên đầu người (“income per capita”), sau 63 năm đảng Cộng sản nắm chính quyền (1945) 33 năm sau khi “thống nhất đất nước” (1975), là $725.00 thì Việt Nam vẫn là nước rất nghèo.  Điểm đáng chú ý là 51% dân Việt vẫn còn nghèo trong tình trạng rớt mồng tơi (tức là dưới US$ 1.00 một ngày).

Qua lịch sử, câu nói sau đây của Lenin đã hòan tòan lỗi thời và sai bét:

“Nguyên do chính gây ra nạn nghèo trên thế giới là là chính sách thực dân của tây phương.”

Các quốc gia nghèo nhất trên thế giới chưa hề có bước chân của thực dân như: A Phú Hãn, Ethiopia, Tây Tạng và Liberia.  Đồng thời có một số quốc gia giầu bậc nhất trên thế giới cũng chưa hề có sự kiểm sóat nào của thực dân như: Thụy sỉ, Na Uy, Đan Mạch, Phần lan.  Trong khi cũng có các quốc gia giầu có lại là thuộc địa cũ như Hồng kông, Hoa Kỳ, Gia nã đại, Tân tây Lan…

Trở ngại chính của sự phát triển quốc gia là chính trị chứ không phải kinh tế, văn hóa hay tôn gíao (mặc dầu kinh tế, văn hóa hay tôn gíao cũng có ít hay nhiều đóng một vai trò phụ trong sự giầu nghèo của dân tộc!)

Hòan cảnh Việt Nam

Trong “Mười điều răn” của Thiên chúa giáo. Đã có đến 2 hai điều (20%) nhắn nhủ về vấn đề tôn trọng tài sản (tư hữu) của con người.

Điều 8 nói: “Không được trộm cắp.”

Điều 10 nói: “Không đươc tham của người.”

Hèn gì CS không thích Thiên Chúa gíao (và ngược lại!)

Có ý tham tài sản của người (điều 10) đã là một tội rồi; lấy trộm (điều 8) tức là “lấy” mà không có sự đồng ý của sở hữu chủ còn mang tội nặng hơn. 

Chính CS (và XNCH) đã hợp thức hóa vấn đề “lấy” của cải của người dân.  Họ không chỉ “lấy” mà ngang nhiên “cướp (!)”  đi tất cả những gì người dân tạo dựng ra từ mồ hôi nước mắt; và rồi rao giảng là làm như vậy để tạo một “xã hội công bằng tốt đẹp hơn.”  Sau 60 -70 năm (từ sau “cách mạng tháng 10” ở Nga và “cách mạng tháng 8” ở Việt Nam), sự công bằng vẫn chỉ là bánh vẽ.  Chỉ thấy “hướng dẫn sản xuất” dẫn đến kinh tế trì trệ, “giới hạn lợi bổng và chế độ bao cấp” dẫn đến năng xuất kém và tiêu diệt sáng kiến.  Chính phủ càng tăng gia sự kiểm sóat thì tự do của công dân càng bị thu hẹp…  CS một mặt không xây dựng được gì đã đành; lại còn phá hủy cái động cơ căn bản thúc đẩy sự sản xuất: “tư hữu.”   Người dân dưới chế độ CS càng ngày càng nghèo thêm; ngọai trừ một thiểu số cán bộ, nhân viên chính quyền giầu có nhờ tham nhũng, lường gạt dân chứ không phải vì họ lao động giỏi…

Ngay cả lý tưởng “công bằng xã hội” theo kiểu cộng sản (“cách mạng vô sản”) nghe cũng không ổn!  Gỉa dụ việc lấy hết của nhà giầu để chia cho nhà nghèo được thi hành một cách “nghiêm chỉnh” thì chính sách “nghiêm chỉnh” này tự nó đã “thiếu tinh thần sản xuất” rồi.  Theo John Tucci:

“Lấy của cải của người giầu -  bất kể giầu vì lý do gì (giầu vì làm việc siêng năng, may mắn hay thụ hưởng gia tài của cha ông, lường gạt, tham nhũng…) đem chia cho người nghèo sẽ không giúp ích gì cho người nghèo cả.  Bời vì giầu nghèo không phải là vấn đề có nhiều tiền của (hay ít tiền ít của) hơn người khác; chẳng khác gì người bị béo phì không phải vì Mc Donald bán hamberger và khoai chiên có nhiều dầu mỡ.  Ăn hamburger và khoai chiên có nhiều dầu mỡ là sự lựa chọn của mỗi người.”

Đúng như vậy" Ngòai ra, sự bố thí chẳng giúp ích gì cho người nghèo nếu nhìn theo chính sách về lâu về dài.  Nếu cho (free of charge!) người nghèo đói một con cá.  Họ ăn hết con cá đó thì ngày mai họ lại đói lại như thường.  Chính sách tốt là chính sách biết cách dậy (“gíao dục”) người nghèo làm sao biết cách “câu cá” thì mới mong họ tự túc kiếm ăn không bị đói.

Nhìn chung các nước nghèo (trong đó hiển nhiên có cả nước Việt Nam anh hùng) đều có vài điểm giống nhau. Ngòai chuyện thiếu ăn, thiếu mặc còn thấy ngay là nước đó có chế độc tài hoặc Cộng sản - hoặc có cả hai của quí “độc tài và CS” một lúc (Tôi đề nghị CS nên đổi lại khẩu hiệu mà họ thường trên in trên những hàng đầu các văn bản của nhà nước là: “Không có gì quí bằng độc tài và Cộng sản”) -  Không phải vì đất nước thiếu tài nguyên mà vì lãnh đạo độc tài CS phần lớn thất học, tham lam mông muội.  Họ chỉ lo vơ vét cho nhiều cho nhanh để vinh thân phì gia (hoặc bỏ vào nhà băng ở ngọai quốc); họ không hề để ý gì đến vấn đề giáo dục, y tế và an sinh của dân; không xây dựng các cơ sở hạ tầng cần thiết tối thiểu như trường học, bệnh viện, đường xá… để giúp dân có cơ hội thóat ra cảnh nghèo đói triền miên của họ.

Chính quyền CS cứ ra rả hô hào “xóa đói, gỉam nghèo” mà chẳng thấy làm được cái gì cụ thể cả.  Họ không biết là dân chúng Việt Nam đang muốn thi hành điều cần thiết số 1 (“number ONE”) là “diệt bỏ chủ nghĩa cộng sản.”  Nếu trong một đêm, cứ mỗi một gia đình Việt Nam chia nhau xiết cổ 1 tên đảng viên CS là hôm sau nước Việt mới có thể có cơ hội “xóa đói giảm nghèo” được ngay!  Việt Nam có thể cùng sánh bước tiến hóa với dân tộc của tòan cầu được.

Chế độ CS và HCM sau khi ám sát, cắt đầu, mổ bụng, phá cầu, đắp mô, pháo kích vào khu đông dân cư, nướng bao nhiêu sinh mạng thanh niên Việt qua hết kháng chiến này đến chiến tranh nọ…  thành quả duy nhất mà họ đem đến cho nước Việt là làm cho đất nước tụt hậu từ 50 dến 90 năm.  Vinh quang ở chỗ nào"  Xin cho biết với!  Đời sống người dân  dưới chế độ CS  cứ dần dần chìm sâu hơn trong tuyệt vọng, không thấy lối thóat.  Con đường “hy vọng” ngắn nhất đi từ sự nghèo khó đến hy vọng sinh tồn có lẽ là phải làm những chuyện bất hợp pháp như trộm cắp, lường gạt, buôn bán ma túy và…  mãi dâm để sống qua ngày qua tháng.   Ngay cả những người lương thiện, ngay thẳng, trọng nhân phẩm cũng phải nghĩ đến việc phải phạm pháp, việc phải đáng xấu hổ chỉ vì họ có cha mẹ, có anh em, có con cái đang đang sống vất vưởng và trông cậy vào họ.  Thật là thương tâm khi phải nghĩ đến sự lựa chọn, sự hy sinh to tát của họ. 

Xứ sở nghèo (như Việt Nam) đều thiếu các cơ sở hạ tầng như đường xá, giao thông, nguồn nước sạch để uống, Ai cũng biết, sự giáo dục, học hành và sức khỏe sẽ mang lại một hy vọng cho người nghèo thoát ra khỏi hoàn cảnh bị đất của mình, những vùng nghèo lại thiếu trường học, thiếu cơ sở y tế tối thiểu.  Không thấy chính quyền CS thi hành các nỗ lực (xây dựng) nào để giúp người nghèo. Nếu có tạo được một vài cơ sở hạ tầng như trường học, trạm y tế, thì người dân nghèo (“bần cố nông nòng cốt của cách mạng!” “chủ của đất nước!”) lại bị hạ nhuc, bị đối xử tàn nhẫn khi họ có nhu cầu cần tiếp xúc với các nhân viên, cán bộ nhà nước (“đấy tớ của nhân dân!”) ở chính ngay các cơ sở hạ tầng nầy (hối lộ, các chế tài khắt khe, ngăn cấm…) 

Nhiều chủ gia đình nghèo Việt Nam thấy sự thất bại của mình trong việc xây dựng tương lai cho gia đình và con cái, thường quay ra nghiện rượu, đánh vợ đánh con, làm cho cơ cấu gia đình bị đổ vỡ, rồi xã hội đổ vỡ.  Chuyện tội phạm, vô luật lệ là chuyện bình thường của xứ nghèo. Đã xoá đói giảm nghèo không được, mà lại không có đủ phương tiện để chống phạm tội…   Cái vòng lẩn quẩn dường như khó mà xoay ngược lại được mà lại cứ thế lún xuống xâu hơn mỗi ngày.

Tiến trình của lịch sử thế giới cho thấy chủ nghĩa cộng sản chẳng sớm thì muộn rồi cũng sẽ bị tận diệt.  Thật oan trái! Cái nguyên nhân chính sẽ tiêu diệt CS lại là cái mà CS vẫn hô hào cổ võ: “vô sản” (sau khi đã thi hành “Trí, phú, địa, hào / Đào tận gốc, trốc tận rề!").   Vô sản làm lụt đi cái động năng tự nhiên thúc đẩy con người làm việc chăm chỉ hơn (để thêm lợi nhuận tư sản).  CS có khả năng làm đại đa số dân chúng nghèo bằng nhau những khó mà đem lại sự xung túc cho dân. CS biến văn minh dân tộc trở thành văn minh của các bộ lạc bán khai nơi đó tất các tài sản chung của bộ lạc (quốc gia) và tài sản của riêng của người dân mọi (dân chúng) đặt dưới sự “quản lý” của bộ lạc (nhà nước!)

Thể chế dân chủ hay độc tài chưa thể quyết định được sự thịnh vượng hay nghèo khổ của quốc gia. Phải nhìn vào hệ thống kinh tế của quốc gia đó mới thấy rõ được sự thành công hay thất bại. Ngày hôm nay nền kinh tế tư bản mặc dù không hoàn hảo (khủng hoảng kinh tế, sự cách biệt lớn lao giữa giầu và nghèo…) nhưng nó đưa ra nhiều kết quả tốt hơn là từ nền kinh tế xã hội chủ nghĩa (nhà nước / giới cai trị kiểm soát mọi động tác trên sân chơi kinh tế).  Bởi vì “công bằng xã hội” và “động lực phát triển kinh tế” không nằm chung giường với nhau được.

CS có khả năng lật đổ, “cướp” chính quyền nhưng hoàn toàn không có khả năng đưa ra một phương cách cải tiến đời sống và tiện nghi của dân tộc. Đại đa số quần chúng đã nghèo từ trước vẫn nghèo như muôn thuở; Chẳng những thế, số người nghèo lại còn gia tăng thêm gấp bội hơn lúc trước.  Sự thể này đã thấy rõ rệt ở các quốc gia trước đây theo chế độ CS như Liên xô, CS Đông âu… Hầu hết các các quốc gia có nền kinh tế tư bản đều là nước dân chủ – có nghĩa là chính quyền được dân bầu lên một cách dân chủ chứ không phải được chỉ định bởi 1 thiểu số hay 1 đảng phái.  Dân nghèo, bị ép vế dưới chế độ tư bản sẽ áp lực các đại biểu của họ thi hành các biện pháp (hay thông qua các dự luật) để thay đổi hoàn cảnh của họ. Nhưng ngược lại, người nghèo, yếu thế dưới chế đó CS hoàn toàn bất lực, đó là chưa kể chính quyền CS lấy đâu ra tiền (capital) và mậu dịch (trade) – 2 món mà họ luôn luôn đã phá - để cải tiến mức sống của dân nghèo"  Các nước tư bản tiến bộ vì dị biệt về quan điểm ý thức hệ với CS, không tha thiết gì về việc giúp đỡ các lân bang CS.  Thành ra, cách tốt nhất, các chính quyền CS phải lấy / cướp của nhà giàu, trên nguyên tắc là, chia bớt cho người nghèo (") (đánh tư sản mại bản cho đến tận gốc rễ, cái cách ruộng đất một cách phi lý, đẫm máu).

Ở cuối con đường, các tài sản bị cướp từ các giới tư sản và địa chủ không vào tay dân nghèo mà lại vào tay của các cán bộ, đảng viên của giai cấp lãnh đạo (cò gọi “giai cấp mới”). Xã hội mất hẳn ý chí sản xuất (vì sản xuất ra lại sợ bị tịch thu…) như vậy lấy đâu ra vốn và kỹ thuật để làm gia tăng sản xuất, gia tăng mức sống…  Nghèo sẽ là chuyện đương nhiên – hãy nhìn lại thêm một lần nữa Liên xô, Đông âu, Cuba, Bắc Hàn,  Kampuchia, Việt Nam…) - 

Cơ hội giàu có sung túc của một dân tộc rõ ràng không chỉ căn cứ trên địa lý, văn hoá mà cả chính sách kinh tế và thể chế chính trị của dân tộc…  75 năm lịch sử cận đại đã chứng minh rõ rệt điều này. 

Tự nhiên, trong hai cái xấu, tốt nhất là mình nên chọn cái nào xấu it hơn.  Bài học sai lầm (lựa chọn cái xấu!) của dân tộc đã dài 60 - 70 năm rồi.  Mình đâu có sống lâu để đi từ sai lầm này đến sai lầm khác. Hãy khôn ngoan học cái sai lầm của các dân tộc khác.

Việt Nam đứng lên.

Trần Văn Giang

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
Việt Nam và Trung Quốc đã ký 14 Văn kiện hợp tác an ninh Chính trị, Kinh tế-Thương mại và Văn hóa-Báo chí trong chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Tổng Bí thư Tô Lâm từ ngày 18 đến 20/08/2024. Trong số này, Văn kiện kết nối và thiết lập 3 Tuyến đường sắt giữa hai nước được gọi là “anh em” đã giúp Trung Quốc liên thông ra Biển Đông và bành trướng thế lực kinh tế...
Tại Campuchia, kênh đào Phù Nam Techo, trị giá 1,7 tỷ USD sẽ kết nối Phnom Penh và Vịnh Thái Lan, tượng trưng cho niềm tự hào dân tộc, an ninh và kết nối thương mại quốc tế. Người ta có thể cảm thấy như thế qua lời tuyên bố của Thủ tướng Campuchia Hun Manet và của ông Hun Sen, trong cương vị cố vấn, người đã chuyển giao quyền lực từ cha sang con vào năm ngoái...
Danh từ được tác giả dùng trong bài này không phải là danh từ theo tự loại mà là một thuật ngữ của Việt Cộng. Thuật ngữ Việt Công hay là danh từ Việt Cộng là những thuật ngữ, những từ được dùng trong nước dưới chính quyền Cộng sản Việt Nam. Ở trong nước người ta không dùng từ “Việt Cộng” mặc dầu Việt Cộng chỉ có ý nghĩa là Cộng Sản Việt Nam chớ không có nghĩa gì khác. Phải nói rõ ràng và dài dòng như vậy để tránh hiểu lầm và hiểu sai. Những danh từ đề cập trong bài viết này đa số là những danh từ kinh tế, vì chủ đề của bài viết là kinh tế, phân tích những ván đề kinh tế, nhận định về kinh tế chớ không phải chính trị, mặc dầu kinh tế không thể tách rời khỏi chính trị, xuất phát từ chính trị và tác động trở lại đời sống của mỗi con người chúng ta.
“Tôi hơi chậm hiểu lại rất chóng quên nên dù đã lê lết qua hơi nhiều trường ốc (trong cũng như ngoài nước) nhưng trình độ học vấn và kiến thức cũng chả̉ tới đâu, vẫn chỉ ở mức làng nhàng. Nói tóm lại là thuộc loại “xoàng”! Ơ! “Xoàng” thì đã sao nhỉ? Cũng không đến nỗi trăng/sao gì đâu, nếu tôi biết điều (biết chuyện – biết thân – biết phận) hơn chút xíu. Khổ nỗi, tôi lại cứ tưởng là mình cũng thuộc loại đầu óc trung bình (hoặc chỉ dưới mức đó không xa lắm) nên ghi danh học – tùm lum/tùm la – đủ thứ phân khoa: Triết Lý, Tâm Lý, Xã Hội, Nhân Chủng …
Một bài viết ngay sau khi được bầu vào chức Tổng Bí thư đảng CSVN cho thấy ông Tô Lâm đã hiện nguyên hình một người giáo điều, bảo thủ và hoài nghi trong “hợp tác quốc tế” với các nước. Trước hết ông cáo giác: “Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.” Lời tố cáo này không mới vì chỉ “nói cho có” và “không trưng ra được bằng chứng cụ thể nào”, giống hệt như những người tiền nhiệm...
- Mình lúc này không muốn theo dõi tin tức nữa. Mệt lắm. - Mình cũng vậy, không đọc báo, chỉ xem phim hoặc nghe thuyết pháp, tránh nhức đầu. - Đời người ngắn ngủi, sao phải tốn thì giờ… - Ở tuổi này, chuyện gì không vui xin miễn, tội gì phải đọc tin tức rồi tự mình làm khổ mình. Trong những năm gần đây, những phát biểu đại loại như trên từ bạn bè khiến những người trong ngành chúng tôi đôi lúc không khỏi ngán ngẫm về công việc báo chí của mình, một việc làm nếu đã không được tưởng thưởng tài chánh tương xứng, thì phần thưởng tinh thần từ ý nghĩa tự nó cũng không đủ bù đắp. Đọc báo hay không đọc báo?
Hồi đầu thế kỷ, có bữa, tôi nhận được thư của Vũ Thư Hiên. Ông hớn hở cho hay “Anh Tấn sắp sang Pháp chơi với anh vài tuần”. Thuở ấy, hai ông còn khá trẻ trung (và còn sung lắm) nên chắc chắn là đôi bạn già sẽ đi lung tung khắp Âu Châu, chứ dễ gì mà chịu quanh quẩn ở Paris. Mãi cả chục năm sau, sau khi nhà văn Bùi Ngọc Tấn lâm trọng bệnh, tôi mới nghe ông nhắc đến chuyến du hành thú vị này (với ít nhiều tiếc nuối) trong một cuộc phỏng vấn dành cho BBC – vào hôm 14 tháng 11 năm 2014: “Sang châu Âu, tôi quan sát dáng người đi, nét mặt của họ khác dân mình lắm… Đi thì mới biết mình bị mất những gì.”


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.