Hôm nay,  

Niềm Vui Sách Đèn

14/12/200900:00:00(Xem: 5564)

Niềm Vui Sách Đèn 

Đoàn Thanh Liêm   
(Để tưởng nhớ Học giả Nguyễn Hiến Lê, Luật sư Trần Văn Tuyên và Nhà báo Đỗ Ngọc Yến. )
Ngoài cuộc sống gia đình, tôi có hai điều say mê thích thú trên đời. Đó là niềm vui với bạn bè bằng hữu, và niềm vui với sách vở chữ nghiã.
Vào năm 1983, tính theo tuổi ta, thì tôi đã bước vào tuổi “Ngũ thập tri thiên mệnh” rồi. Mà vào lúc đó, tình hình ở Việt nam dưới chế độ cộng sản thì thật là đen tối bế tắc. Nên tôi có làm mấy câu thơ để giãi bày tâm sự như sau  :
Ngũ tuần vưà tới năm nay 
Tóc sương đã điểm, tim này còn rung
Giữa cơn gió bụi mịt mùng
Bạn hiền tri kỷ vẫn chung một lòng
Sách đèn gia nghiệp đêm chong
 Gắng công tu luyện, thoát vòng tối tăm.
Bài này tôi có đọc cho các bạn thân thiết nghe chơi. Đặc biệt, tôi có gửi cho cụ Nguyễn Hiến Lê hồi đó đang về nghỉ tại Long Xuyên. Ít lâu sau cụ Nguyễn về lại Saigon, thì cụ lại đến nhà thăm tôi. Truyện trò thăm hỏi mấy câu, thì cụ lấy từ túi aó ra bức thư tôi đã gửi cho cụ ở Long Xuyên. Cụ đọc lại bài thơ và gật đầu, tán thưởng. Cụ nói  : “Tôi đọc mấy câu thơ tâm sự này cuả ông, mà cảm thấy vui lây với cái tinh thần lạc quan, bình tĩnh cuả ông. Thật đúng là khẩu khí cuả con người là cháu nội cuả một vị đồ nho như trường hợp cuả ông...”
Cụ nói như vậy, vì trước đó tôi đã có dịp tâm sự với cụ rằng tuy là cháu cuả một vị đồ dậy chữ nho, mà tôi chẳng được học lấy một câu chữ nho nào cuả ông nội, bởi lẽ ông tôi đã mất khi tôi mới có 5-6 tuổi gì đó thôi. Tuy vậy, tôi vẫn luôn nhớ là cha mẹ tôi thường nhắc nhở dặn dò lũ anh chị em chúng tôi là : “ Chúng con phải cố gắng để mà giữ vững được cái nền nếp gia phong, gia đạo cuả dòng họ nhà mình ...” Sau năm 1975, thì tôi có cái duyên được quen biết gần gũi với cụ Lê; và tôi thường lui tới thăm viếng, đàm đạo với cụ một già một trẻ, thật là tâm đắc. Ông cụ lại còn tặng cho tôi một số cuốn sách rất có giá trị, cụ thể như cuốn “Cổ văn Trung quốc” do cụ biên soạn vào hồi năm 1966 - 67, và cả cuốn “ Les dilemmes du développement” cuả giáo sư Raymond Aron là một tác giả mà cụ cũng như tôi đều rất ưa thích. Bằng một giọng nói bình thản, nhẹ nhàng có lần Cụ tâm sự với tôi : “ Tôi đang chuẩn bị cho “chuyến đi xa cuả tôi” (mon grand départ), nên đã soạn ra các sách dành riêng cho cháu nội hiện ở bên Pháp. Còn lại, thì gửi cho bạn bè mỗi người một vài cuốn để làm kỷ niệm. Xin ông giữ lấy một ít cuốn tôi gửi tặng vậy nhé...” Và chẳng bao lâu sau, cụ Nguyễn Hiến Lê đã từ giã cõi đời vào cuối năm 1984 tại Saigon.
Người thứ hai mà tôi cũng rất quý mến thân quen hồi trước năm 1975, đó là Luật sư Trần Văn Tuyên. Ông là một vị niên trưởng nổi danh cuả giới luật gia chúng tôi trong Luật sư đoàn Toà Thượng Thẩm Saigon. Nhiều buổi sáng sớm, tôi đến thăm thì được mời lên phòng trên lầu uống cà phê với ông. Lúc đó ông còn mặc áo bà ba, ngồi bàn giảng bài toán cho cô con gái nhỏ còn đang học trung học cuả mấy bà soeur. Phòng ông làm việc thì chỉ có sách ơi là sách được bày trên các kệ thật cao. Luật sư Tuyên luôn khuyến khích việc anh chị em thanh niên chúng tôi làm công tác xã hội tại các quận 6,7,8 Saigon. Có lần ông xuống thăm mấy công trường tái thiết các khu nhà bị tàn phá thời Tết Mậu Thân 1968 và thân mật nói chuyện trao đổi với chúng tôi.Sau ngày 30 Tháng Tư 1975, tôi có đến thăm ông bà vẫn còn ở lại Việt nam, ông có giữ tôi lại ăn cơm trưa với ông bà, và đó là bữa cơm cuối cùng giữa ông và tôi. Vì sau đó, thì ông phải vào trại” tù cải tạo”, rồi bị mất tại trại Hà Tây gần với ga xe lưả Văn Điển ngoài Bắc vào cuối năm 1976.
Vào hồi năm 1981-82, thì bà Luật sư Tuyên tức là Phạm Thị Côn có cho tôi hay rằng : “Sách cuả anh Tuyên để lại quá nhiều, mẹ con tôi phải cho bán bớt đi. Nhưng tôi muốn để cho các anh là chỗ thân thiết lâu năm với anh Tuyên, thì các anh được quyền ưu tiên chọn lấy các sách về chính trị, luật pháp mà các anh thích. Riêng anh, thì anh muốn chọn lấy bao nhiêu cũng được, vì anh là người bạn rất tâm đắc cuả anh Tuyên. Xin anh cứ thoải mái chọn các sách mà anh ưa thích, như là một kỷ niệm đẹp đẽ cuả anh Tuyên vậy...” Và tôi đã chọn được đến vài ba chục cuốn sách mà tôi ưa thích, đặc biết có cả bộ sách trên 10 cuốn cuả nhà khảo cổ lừng danh thế giới là Teilhard de Chardin cuả Pháp.Tủ sách cuả Luật sư Tuyên rất quý, vì ngoài các sách ông mua sắm trong các chuyến công du ở ngoại quốc, lại còn các sách ông được giới ngoại giao hay chính khách quốc tế tăng biếu ông nưã. Cụ Nguyễn Hiến Lê là bạn cùng học chung với Luật sư Tuyên tại trường Bưởi Hanoi năm 1930-32, thì cụ nói với tôi :” Anh Tuyên ngày xưa học rất giỏi, đặc biệt là về môn Toán. Sau này anh ấy học Luật, chứ nếu mà anh ấy theo đuổi ngành khoa học, thì anh vẫn có thể xuất sắc như thường.” Thành ra tôi là người đều có duyên thân thiết với cả hai vị tiền bối, mà là bạn đồng môn với nhau tại ngôi trường mà sau này đổi tên là Trường Chu Văn An, và tôi là kẻ hậu sinh cũng đã theo học tại ngôi trường này vào hồi trước năm 1954 nưã.
Người thứ ba mà rất có duyên với tôi về chuyện sách vở vào thời kỳ tôi qua định cư ở California, đó là nhà báo Đỗ Ngọc Yến. Dĩ nhiên là chúng tôi quen biết gắn bó với nhau trong công tác xã hội từ rất lâu trước kia ở Việt nam. Hồi năm 1965, Yến là Tổng Thư Ký cuả Chương trình Công Tác Hè cuả giới Thanh niên, Sinh viên , Học sinh toàn miền Nam Việt nam, lúc mới có 24 tuổi.


Ngoài chuyện hoạt động xã hội rất năng nổ nhiệt thành, Yến còn có sự say mê với sách vở. Anh chiụ khó tiện tặn trong các khoản chi tiêu để còn dành dụm tiền vào việc mua sắm sách báo, ngay từ cái thời còn ở Việt nam. Nhưng qua đến Mỹ, thì trong vài chục năm Yến đã mua sắm được cơ man nào là sách báo. Sách nhiều đến nỗi trong các phòng ngủ, đâu đâu cũng đày ắp sách ơi là sách, kể cả cái garage nưã, đó không phải là chỗ chứa xe, mà là cả một kho sách với các kệ chưá kín mít. Mà Yến lại rất rộng rãi, đem chia sớt cho bất cứ bạn bè nào có nhu cầu tham khảo, tìm kiếm kiến thức nơi sách báo. Từ ngày qua Mỹ năm 1996, tôi đã được Yến cho đến cả mấy chục cuốn sách mới xuất bản rất có giá trị, mà sau năm 1975 tại quê nhà tôi it có dịp được biết tới. Yến lại khuyến khích tôi nên tập trung vào một số lãnh vực mình có sở trường, chứ không nên bao biện dàn trải mở rộng trong nhiều bộ môn. Và trong hầu hết các sách Yến cho tôi, thì đều có những ghi chú cuả anh khi đọc. Đó là điều chứng tỏ là Yến đọc sách rất nghiêm túc, tôi thấy Yến cũng giống như cụ Nguyễn Hiến Lê trong khiá cạnh đọc sách và ghi chú rất kỹ lưỡng vào lề các trang sách. Cụ thể như trong các sách cuả Henry Kissinger hay cuả Raymond Aron mà Yến cho tôi mấy cuốn, thì tôi thấy đày rãy những ghi chú cuả anh dọc theo các trang sách, khi thì bằng mực đỏ, lúc thì bằng bút chì đen. Kể cả sau khi Yến mất đi, thì tôi vẫn còn đến nhà chị Loan là bà xã cuả anh để xin thêm một vài cuốn sách nưã. Chị Loan nói : Anh cứ thoải mái chọn các sách mà anh cần, vì tôi đang phải tìm cách chuyển cái kho sách quá nhiều này đến các nơi nào có nhu cầu như tủ sách cuả các cơ quan đoàn thể chẳng hạn.
Chị Loan còn nhắc lại cho tôi biết về cái niềm say mê cuả ông xã cuả chị với sách vở chữ nghiã. Hầu như không mấy dịp nghỉ cuối tuần nào mà Yến không đi lùng kiếm sách nơi các chợ sách hay nơi các thư viện trong vùng Orange County. Có lần Yến mua cả một lô đến cả ngàn cuốn sách cũ cuả thư viện Đại học Fullerton và phải giao hẹn với cơ sở này để dành cho Yến kiếm xe đến chở đi lần lần. Tôi cũng vốn có sự say mê với sách vở, nhưng chưa thấm vào đâu so với nỗi đam mê này cuả Yến. Anh đã từ giã cõi đời được trên 3 năm rồi, nhưng cái ký ức cuả tôi về Yến trong chuyện sách vở, cũng như sự quý mến bằng hữu thì không bao giờ phai lạt tan biến đi đâu được.
*           *          * 
Ngay từ cái hồi còn theo đuổi học tập tại đại học ở Saigon, tôi đã hăm hở lui tới hầu hết các thư viện trong thành phố, đặc biệt là thư viện cuả phòng thông tin Hoa kỳ, thư viện cuả hội Alliance Francaise cuả Pháp, cuả Học viện Quốc gia Hành chánh do đại học Michigan bảo trợ, và dĩ nhiên là thư viện cuả đại học Luật khoa. Đó là chưa kể thư viện cuả các linh mục Dòng Đaminh nơi cư xá sinh viên Phục Hưng ở số 43 Nguyễn Thông mà tôi được cư ngụ trong các năm 1956 – 58 hồi còn học luật ở Saigon. Sau này khi ra trường, thì tôi đi làm cho Quốc hội Việt nam thời Đệ nhất Cộng hoà, nơi đây cũng có một thư viện với khá nhiều sách báo mới do các sứ quán ngoại quốc gửi tặng, cũng như do văn phòng Quốc hội mua sắm riêng cho các dân biểu tham khảo. Nhưng thường ngày, thì chỉ có mấy chuyên viên trẻ tuổi như tôi mới hay lui tới đọc sách tại đây, vì thư viện này được giao cho Sở Nghiên cưú Pháp chế chúng tôi quản lý. Hồi đó tôi hay nói đuà với mấy bạn đến thăm tại văn phòng rằng :  Vốn là một tên mọt sách, tôi làm việc tại nơi có thư viện như cơ quan này, thì giống như là một thứ “chuột sa chĩnh gạo “ấy !
 Và nhất là khi tôi được gửi đi du học tu nghiệp tại Mỹ vào năm 1960-61, thì tôi được tới tập sự tại Thư viện Quốc hội Mỹ (Library of Congress) là một cơ sở văn hoá có tiếng tăm vào bậc nhất trên thế giới. Tôi được các bậc đàn anh trong Sở Sưu tầm Lập pháp (Legislative Reference Service LRS) tại đây chỉ dẫn tận tình về cách thức nghiên cưú sưu tầm tài liệu phục vụ chuyên biệt cho Quốc hội với một chuyên viên mới có cỡ 25-26 tuổi vưà mới từ một cơ sở non trẻ tại Việt nam tới để học tập nâng cao trình độ chuyên môn trong ngành nghiên cứu luật pháp. Các vị huynh trưởng này phần nhiều đã vào tuổi trên dưới 40, là luật sư hay giáo sư đại học, họ thấy tôi ham tìm kiếm học hỏi thì lại càng hết sức truyền thụ kiến thức chuyên môn cho tôi. Vì thế mà kể từ năm 2000, tôi đã luôn luôn tìm cách trở lại cơ sở nghiên cưú này để tìm kiếm tài liệu cho đề tài nghiên cưú dài ngày cuả tôi về” sự phục hồi xã hội dân sự tại Đông Âu kể từ khi chế độ công sản sụp đổ vào năm 1989”. Các chuyên gia phân tích luật pháp (legal analyst) hiện làm việc tại cơ sở Law Library này, thì hầu hết chỉ vào cỡ tuổi 40 – 50, nên họ có sự quý trọng đối với một vị “laõ thành” đã vào cái tuổi thất thập như tôi, mà đã từng lui tới cơ sở này từ trên 40 năm trước vào đầu thập niên 1960, dưới trào Tổng Thống Eisenhower và Kennedy.
Vậy đó, sau nhiều năm miệt mài theo đuổi hoạt động xã hội trong thời gian chiến tranh khói lưả ở Việt nam, rồi tiếp đến những năm tháng dài đằng đẵng phải sống dưới chế độ cộng sản, và nhất là sau mấy năm bị nhốt trong các trại tù, thì bây giờ được sống trong một xã hội tự do thông thoáng và tiến bộ như ở nước Mỹ hiện nay, tôi đã tìm lại được cái niềm say mê thích thú với sách vở chữ nghiã, như đã từng theo đuổi từ cái hồi trai trẻ vào lưá tuổi đôi mươi trong muà xuân cuả cuộc đời mình. Và nhất là ngày nay, nhờ có internet nên việc sưu tầm nghiên cứu cũng dễ dàng mau lẹ và chính xác hiệu quả hơn trước đây rất nhiều. Cũng phải kể đến các tiện nghi dễ dãi mà các thư viện cuả các thành phố lớn, cũng như cuả các đại học luôn dành sự ưu đãi cho các chuyên viên nghiên cứu nưã. Nhờ vậy mà tôi có thêm sự phấn khởi để dấn thân vào cái công việc học hỏi nghiên cứu trong lãnh vực xã hội học về chánh trị và văn hoá (politico-cultural sociology), mà tôi đã để tâm theo đuổi từ mấy chục năm qua, ngay khi còn ở quê nhà thời kỳ trước năm 1975.
Tôi thật an tâm thanh thản để tiếp nối con đường cuả một kẻ có niềm say mê với sách vở chữ nghiã ngay từ buổi thiếu thời ở quê nhà giưã cái thời chiến tranh đày những hận thù và tang thương khói lưả. Và tôi luôn cố gắng hết sức để có thể trả xong được” cái món nợ aó cơm và nợ đèn sách” mà quê hương và xã hội đã cung ứng quá đày đủ cho mình suốt trong bao nhiêu năm nay.Tôi vui thích được học “chữ nghiã cuả thánh hiền” trong truyền thống văn hoá dân tộc Việt nam cuả mình. Và tôi cũng biết ơn đối với nền văn hoá Âu Mỹ mà tôi cũng tiếp thu được để bồi bổ cho cái vốn liếng văn hoá dân tộc cuả cha ông mình. Trong ý hướng sòng phẳng và lành mạnh đó, tôi vui mùng phấn khởi với công việc sưu tầm và nghiên cứu đã khởi sự từ nhiêu năm nay cuả mình vậy./
California, Tháng 11 Năm 2009
Đoàn Thanh Liêm

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm Thứ Sáu 26/9, Tổng Biên Tập JEFFREY GOLDBERG của tạp chí The Atlantic gửi ra tuyên bố phản đối lệnh của Ngũ Giác Đài về việc áp đặt, kiểm duyệt báo chí. Tuyên bố ghi rõ: “Về cơ bản, The Atlantic phản đối những hạn chế mà Ngũ Giác Đài đang cố gắng áp đặt đối với các nhà báo đưa tin về vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Những yêu cầu này vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của chúng ta, và quyền của người Mỹ muốn biết hình thức khai triển nguồn lực và nhân sự vốn do tiền thuế của người dân tài trợ. Những quy định này cũng phá vỡ các thông lệ lâu đời - dưới thời tổng thống của cả hai đảng, trong suốt thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng quốc gia - vốn cho phép các phóng viên Ngũ Giác Đài thực hiện công việc của mình mà không bị can thiệp chính trị.” The Atlantic đăng tuyên bố này trên trang mạng xã hội chính thức của tạp chí.
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.