Hôm nay,  

Thu Lại Về

11/09/201000:00:00(Xem: 7238)

Thu Lại Về     

Mây-cao-Nguyên
Thời tiết đã bắt đầu trở lạnh. Cây lá đã đổi màu và rơi rụng khắp nơi. Tôi đang đứng nhìn những khu rừng cây rực rỡ với vạn sắc màu rất khó mà diễn tả hết được, và những khu đồi cao và thung lũng sâu trải rộng như những tấm thảm màu Đông Phương rực rỡ của vùng White Rock. Tôi chợt nhớ đến bài thơ "Gió Thu" của thi sĩ Tản Đà mang một âm điệu buồn man mát:
Trận gió thu phong rụng lá vàng,
Lá rơi hàng xóm lá bay sang.
Vàng bay mấy lá năm già nữa,
Hờ hững ai xuôi thiếp phụ chàng!"
***
Trận gió thu phong rụng lá hồng,
Lá bay tường bắc lá sang đông.
Hồng bay mấy lá năm hồ hết,
Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng không.
Người ta chỉ thấy sự u ám, buồn thảm của mùa thu là vì: những cơn nắng hạ tuyệt vời đã trôi qua, những hội hè, đình đám, những cuộc vui ngoài trời không còn nữa. Chiếc lá cuối cùng nằm trơ vơ trên cành càng tạo thêm vẻ thê lương, buồn thảm.
Mời bạn hãy cùng tôi đi dạo một vòng xuống các vùng: Abbotsford, Langley, Surrey, Chilliwack, Aldergrove... và dọc theo vùng duyên hải White Rock, sát biên giới Mỹ. Thỉnh thoảng đổ xe lại để tản bội dưới những hàng cây cao trụi lá để hít thở chút hương vị của mùa thu, bạn sẽ có dịp thưởng thức mùi thơm nồng ngát của những chiếc lá vàng xông lên ngào ngạt trong bầu không khí. Những ruộng bắp cò bay thẳng cánh dọc hai bên xa lộ, chân trời rộng bát ngát, bầu trời trong xanh, và đàn ngỗng trời bay tít trên cao. Hoặc bạn cùng tôi thả bộ trên những con đường ngoằn-ngoèo, bước chân của chúng ta đạp trên thảm lá vàng khô xào xạc, bạn sẽ nghe tiếng thở, lời than của vùng tuổi thơ trỗi dậy. Chính đây là món quà huyền bí của mùa thu.
Âm thanh của những chiếc lá vàng rơi rụng lững lờ vàng có, đỏ có, chất chồng lên nhau cao đến mắt cá chân.
Đêm mùa thu thật tĩnh mịch. Không khí lành lạnh và khô. Ánh trăng thu to, tròn cao tít tận trời xanh. Mùa mận, táo, hạt dẻ, bắp (ngô)... đã đến kỳ thu hoạch.
Sau đó, tôi sẽ mời bạn về nhà. Tôi sẽ bắt hai cái ghế sau vườn để mời bạn uống vài ly trà nóng để hít thở chút không khí trong lành của một đêm mùa thu tuyệt vời. Đến khuya, trời trở lạnh, chúng ta sẽ vào nhà ngồi trước lò sưởi để nghe tiếng nổ tí tách của những nhánh củi khô, uống vài ly rượu chát đỏ và hát cho nhau nghe những nhạc phẩm tiền chiến ca tụng mùa thu. Và rồi, tôi sẽ kể cho bạn nghe những chuyện vui buồn của kiếp đời tỵ nạn.
Vợ chồng tôi đã may mắn được định cư tại vùng "kinh tế mới" White Rock rất xinh đẹp này đã hơn ba mươi năm. Tôi xin kể cho bạn nghe câu chuyện thần thoại về cái thành phố duyên hải tại sao lại có tên White Rock. Hòn đá trắng khổng lồ này cân nặng 486.6 tấn. Lúc khởi thủy nó được sơn màu đen đã gây một sự phẫn nộ, chống đối của dân địa phương. Nó được nằm trơ vơ, chễm chệ trên vịnh Semiahmoo thơ mộng. Đây không phải nguyên một tảng đá lớn, mà nó được lắp ráp từng mảnh lại với nhau và được sơn màu trắng. Trước khi các nhà thám hiểm đã có công khám phá ra vùng Bắc Mỹ Châu, bộ lạc da đỏ Cowichan thường tôn thờ Hải Thần. Huyền thoại kể lại, vị Hải Thần có một người con trai cao lớn, đẹp trai, và lực lưỡng sống chung với phụ thân trong một nơi kín đáo không xa lắm cách tỉnh lỵ Sidney trên đảo Vancouver. Vị tù trưởng và bộ lạc Cowichans sống dọc trên bờ biển. Vị tù trưởng này có một cô con gái rất xinh đẹp được rất nhiều chàng trai đến tán tỉnh nhưng bị nàng cự tuyệt.
Một ngày kia khi vị công chúa mỹ miều đang đùa giỡn với sóng nước trên Vịnh. Vị hoàng tử của Hải Thần trồi lên mặt nước cạnh nàng và giống như những chàng trai mới lớn đứng trước ngưỡng cửa tình yêu, vị hoàng tử đã bị ngay tiếng sét ái tình giáng một cú đến xây xẫm cả mặt mày. Chàng đã bắt cóc và đưa nàng đến lâu đài của phụ thân, trước cổng lâu đài có gắn một cột Tổ Vật (Totem pole) khổng lồ chạm trổ về lịch sử của đại dương.
Vị Hải Thần rất giận dữ vì nghịch tử đã mang một người con gái tầm thường của một bộ lạc bán khai đến triều đình để xin ông làm lễ cưới, và ông đã ra lệnh phải đem người con gái đó trả lại cho bộ lạc ngay lập tức. Người con trai của vị Hải Thần nhất định phải giữ người con gái đó với bất cứ giá nào, cả hai đến trình diện vị Tù Trưởng. Nàng an ủi chàng, phụ thân của nàng chắc chắn sẽ hoan nghênh nhận chàng làm rể chứ không sao đâu. Nhưng khi họ trồi lên khỏi mặt nước để đến trước mặt vị Tù Trưởng Bộ Lạc Cowichans. Giống y lời từ chối của vị Hải Thần, vị Tù Trưởng đã không thể nào chấp nhận cuộc hôn nhân của hai người. Trước nghịch cảnh, chàng thanh niên lực lưỡng nâng một hòn đá trắng thật lớn đang nằm trên bãi biển và nói với người yêu: "Anh sẽ ném hòn đá này trên mặt nước! Nếu nó rớt bất cứ nơi đâu, nơi đó chúng mình sẽ xây nhà và tạo riêng cho chúng ta một bộ lạc. Nói vừa xong, chàng đã dùng hết sức mạnh ném hòn đá trên mặt Vịnh.
Trong khi hòn đá bay là đà trên mặt nước, vị thái tử kẹp nàng công chúa của bộ lạc lặn xuống nước và bơi theo hướng hòn đá vừa ném đi. Hòn đá khổng lồ rơi rớt trên bãi biển cách chỗ chàng ném 60 dặm, cả hai trồi lên khỏi mặt nước cạnh hòn đá đó. Tảng đá hình bán nguyệt, là cái tổ uyên ương của họ. Bộ lạc hùng mạnh Semiahmoo- hay Bộ Lạc Bán Nguyệt, được đặt tên cho khu Vịnh hiện nay- phát triển và trở nên nổi tiếng.
Sau nhiều năm bộ lạc đã phân tán, nhưng một số ít vẫn còn sống quanh quẩn gần hòn Bạch Thạch lừng danh này.
Trong vòng hai thập niên nay, dọc theo bờ biển White Rock, chính phủ địa phương đã bỏ ra rất nhiều tiền để sửa chữa, trùng tu. Những con đường tản bộ được lót gạch sạch sẽ, hai bên trồng cỏ xanh mướt, đủ loại hoa thơm sực nức mùi hương. Cho nên, vào những ngày đẹp trời, nắng ấm, sau khi dùng cơm tối, vợ chồng tôi thường tay trong tay đi thong thả từng bước một để hít thở những làn gió biển trong lành, chuyện trò một cách thích thú, thoải mái, tình tứ và để nhìn mặt trời lặn. Những cơn gió biển thổi lành lạnh gợi lại cho chúng tôi những giây phút đầu hò hẹn trên bãi biển Nha Trang thơ mộng của những thập niên về trước. Bao nhiêu mệt nhọc và phiền muộn trong ngày đều tan biến, chỉ còn lại trong lòng niềm vui phơi phới. Đó không phải là liều thuốc tuyệt diệu để gắn chặt hạnh phúc hay sao". Những đêm trời mưa gió bão bùng, cơm nước xong, bên ly cà phê hoặc nước trà bốc khói, không có con cái chung quanh, không tính toán nợ nần hoặc không lo cuối tuần này phải đi đâu để giải khuây...kể cho nhau nghe những chuyện vui trong ngày, những hối tiếc của một thời trăng mật xa xưa chưa biết thụ hưởng hết mình về tình dục như lúc này, những bài báo đã đọc hoặc một cuốn phim hay vừa mới xem. Khủy tay chống trên bàn, mặt nhìn mặt đắm đuối, say mê tâm sự. Đôi khi tôi tự nhủ: "Nếu tôi hiểu một cách trọn vẹn mụ Thanh Toàn này thì cuộc đời của tôi sẽ hết hứng thú và sẽ bị khô cằn không thua gì sỏi đá. Bà ta có cả lô chuyện để kể cho tôi nghe và tôi luôn luôn trông ngóng đêm lại về để được nghe những điều mới mẽ, thích thú từ người đàn bà hiểu biết này".
Trước khi tôi tâm sự tiếp, tôi xin gửi hầu bạn một vài vấn đề sau đây để tất cả chúng ta cùng suy ngẫm:
*Mọi người có thể trở nên vĩ đại....bởi vì bất cứ người nào cũng có thể phục vụ. Bạn không cần phải có bằng cấp cao học để phục vụ. Bạn không cần phải tạo ra chủ đề và động tự ưng y' để phục vụ. Bạn chỉ cần có tấm lòng ngập tràn từ ái. Một linh hồn tỏa rộng tình thương yêu.
*Thế giới cần hàng triệu triệu những hành động của sự tha thứ và lòng ăn năn, hối cải để tẩy sạch những ghét bỏ, giận hờn và cay đắng trong cuộc sống.
*Tình yêu là điều làm cho hai người ngồi sát nhau ở giữa chiếc băng ghế dài trong khi hai đầu còn rất nhiều chỗ trống.
*Tình yêu là một trò chơi bất thường. Hoặc có hai kẻ thắng cuộc hoặc không có ai hết.
*Nếu bạn có một xu, tôi có một xu và chúng ta trao đổi những đồng xu đó, bạn chỉ còn một xu và tôi cũng vậy.
Nhưng nếu bạn có một y' kiến hay và tôi cũng có một y' kiến hay, chúng ta trao đổi nhau những y' kiến đó, bạn sẽ có hai y' kiến và tôi cũng sẽ có được hai y' kiến.
*Không có sự bí mật nào dẫn đến sự thành công. Đừng lãng phí thì giờ tìm kiếm. Thành công là kết quả của sự hoàn hảo, làm việc cần cù, học hỏi từ sự thất bại, trung thành với những người mà bạn làm việc cho họ, và kiên trì.
*Sự thành công được đo lường không quá nhiều ở địa vị mà người đó chiếm hữu trong cuộc sống mà bằng chướng ngại vật mà người đó đã vượt qua trong khi cố gắng để đi đến thành công.
*Cố Thủ Tướng Anh quốc, ông Winston Churchill có một lần đến ngôi trường cũ Harrow để nói chuyện với một nhóm học trò tại đó. Ông đã nhấn mạnh sự quan trọng về niềm tin tưởng mà chúng có thể chiến thắng, ông nói: "Đừng bao giờ, đừng bao giờ, đừng bao giờ, đừng bao giờ lùi bước". Bốn lần ông đã nói "đừng bao giờ". Churchill đã cho đám học sinh căn bản của sự thành công là: Đừng bao giờ đầu hàng.    
Cách đây hai tuần, tình cờ tôi mở máy vô-tuyến-truyền-hình để xem thời tiết, tôi thấy một ông lão ngoài 80 tuổi lên lãnh thưởng trong một cuộc thi tranh giải tại địa phương. Ông đã chiếm trọn vẹn cảm tình của tất cả mọi người vì tinh thần lạc quan, yêu đời của ông. Người điều khiển chương trình phỏng vấn: "Cụ hãy cho khán giả biết bí quyết nào đã tạo cho cụ có một tinh thần vui sướng như vậy"". Cụ trả lời: "Vậy sao". Nó thẳng thừng như cánh mũi trên khuôn mặt của cậu. Mỗi buổi sáng khi tôi thức dậy, tôi có hai sự lựa chọn. Một là khốn khổ; hai là hạnh phúc. Và tôi muốn cho quí vị biết, tôi không có ngu dại gì. Tôi đầy đủ khôn ngoan để chọn lựa hạnh phúc. Tôi đã quyết định và chỉ có vậy thôi".
Một triết ly' sống thâm hậu thật đơn giản, tôi rất lấy làm khâm phục nhưng không biết chúng ta có thực hiện được hay không". Sự việc này làm cho tôi liên tưởng đến hai người bạn Gia-Nả-Đại đồng sự tại văn phòng, anh bạn thứ nhất cho tôi một tấm danh thiếp với họ, tên, chức vụ, địa chỉ..mặt sau có nội dung như thế này: "Con đường dẫn đến hạnh phúc: Giữ tâm hồn vô tư không thù ghét. Giữ tâm trí thoải mái không lo âu. Sống đơn giản, yêu sách ít, cho nhiều. Sống mỗi ngày bằng tình yêu thương. Quên mình, nghĩ đến tha nhân. Làm những điều mình muốn người khác làm cho mình. Hãy thử như vậy trong một tuần và bạn sẽ lấy làm ngạc nhiên". Ông bạn thứ hai, gần chỗ tay lái, ông ta dán một miếng giấy nhỏ, trước khi cho máy nổ ông đều đọc một lần, với nội dung như sau: "Chúa dấu yêu, đây là chiếc xe của Ngài. Hãy cầm tay con và hướng dẫn con lái qua những con đường và xa lộ đông đúc. Hãy bảo vệ cho chiếc xe này khỏi phải gặp nguy hiểm và tai nạn. Đừng để cho con nổi giận với những người tài xế khác. Giúp đỡ con tuân phục đúng đắn luật lệ lưu thông. Cho con lái thoải mái, vui vẻ và không bị căng thẳng. A-men".  


Cho phép tôi được hầu chuyện tiếp với bạn. Một văn hào Pháp, ông Balzac đã nói một câu bất hủ: "Người đàn bà phải là một thiên tài mới tạo nên một người chồng tốt". Và bác sĩ Freud của Áo quốc đã có lần nói rằng: "Sau ba mươi năm nghiên cứu, tìm hiểu về họ, tôi tự hỏi: đàn bà họ muốn gì"". Hôn nhân giống như một thành lũy kiên cố, kẻ ngoại cuộc thì muốn nhảy vào, kẻ trong cuộc thì muốn chạy ra.
Ông Henry Drummond đã viết một bài luận án nổi tiếng về tình yêu dưới tựa đề: "Một điều vĩ đại nhất trên thế giới". Tôi chưa bao giờ gặp một người nào bất đồng với định đề tình yêu là một điều vĩ đại nhất trên thế giới, nhưng tôi thường nói chuyện với những người thất vọng bỏ công đi tìm nó. Những hệ lụy nhân sinh mà con người đem đến cho nhau trong cuộc sống giao tiếp hàng ngày không phải là ít, vì cá tính của mỗi người không ai giống ai hết. Tình yêu đến không phải  cho những người chỉ có vóc dáng xinh đẹp hoặc tài năng-Xinh đẹp và tài năng không bao giờ làm cho những sự liên hệ gắn bó lâu dài. Tình yêu là một điều mà bạn cần phải làm, phải hành động, và nếu bạn áp dụng những nguyên tắc căn bản qua loạt bài biên khảo này, tôi tin chắc bạn sẽ có những tình bạn vĩ đại trong cuộc hành trình ngắn hạng trên cái hành tinh này.
Vào năm 1925, một đội y sĩ gồm ba cha con thành lập một nhà thương điên rất nhỏ trong một nông trại ở quận hạt Topeka, thuộc tiểu bang Kansas. Họ đã có y' định tạo một không khí có tính cách gia đình đối với các bệnh nhân. Côi nữ trợ tá được chỉ thị phải đối xử với những bệnh nhân như là: "Phải biết trân quí và yêu thích họ". "Đối xử tử tế nhưng nghiêm nghị với nữ bệnh nhân này-đừng để bệnh trạng của bà trở nên trầm trọng hơn"..v.v... Họ đã áp dụng những phương pháp chữa trị "có vẻ cách mạng" này và đã thành công và nổi tiếng khắp thế giới. Rất nhiều y sĩ các nơi đã tìm đến nông trại Topeka để thụ huấn.
Bác sĩ Karl Menninger đã nói tóm tắc như sau: "Tình yêu là dược liệu cho bệnh hoạn của nhân loại".
Một bác sĩ tâm ly' khác cũng khá nổi tiếng-Viktor Frankl, gốc Do Thái, bị Đức Quốc Xã bắt cầm tù trong hơn ba năm và bị chuyển từ trại tập trung này đến trại tập trung khác nhiều lần, đã kể lại rằng ông đã khám phá một phương pháp để sống sót là cạo râu mỗi buổi sáng, cho dù bạn có bệnh cách mấy đi nữa cũng mặc, không có dao cạo râu cũng phải dùng một miếng mảnh chai bể để cạo. Bởi vì, mỗi buổi sáng, tù nhân đứng sắp hàng để điểm danh, những tù nhân bệnh hoạn không thể đi làm lao động đều bị đưa vào lò hơi ngạt. Nếu bạn cạo râu, và mặt mày nhẵn nhụi, bạn sẽ có cơ may thoát được bàn tay của tử thần ngày hôm đó.
Thân thể của họ đã càng ngày càng tiều tụy vì chỉ được phát hai lát bánh mì mỏng và một lon cháo lỏng. Chín người tù chen chúc nhau trên một tấm ván trần trụi bề ngang hai thước và chung nhau hai tấm mền. Vào lúc ba giờ sáng, ba tiếng còi lạnh người đánh thức tù nhân thức dậy để đi lao động.
Một buổi sáng khi đoàn tù tiến ra để làm đường rày xe lửa cách xa trại tập trung hàng dặm trong cơn giá buốt, bọn cai tù quát tháo, chửi bới và dùng báng súng đánh đập hối thúc. Người nào bị đau chưn được người bạn bên cạnh dìu cho đi. Người tù đi cạnh bác sĩ Frankl, che miệng trong cổ áo kéo cao, thì thầm: "Nếu vợ con chúng ta có thể chứng kiến được cảnh này bây giờ! Tôi hy vọng họ sẽ được đối xử khá hơn trong trại của họ và không biết điều gì đang xảy ra cho chúng ta đây".
Bác sĩ Frankl viết: "Y' tưởng này đã mang lại hình bóng thân yêu của vợ tôi trong tâm trí. Và trong khi chúng tôi lầm lủi đi hàng dặm đường, trượt ngã trên những tảng băng, dìu dắt, và lê lết té lên, té xuống, không có gì đáng nói, nhưng cả hai chúng tôi đều biết: mỗi một chúng tôi đang nghĩ đến người vợ yêu quí của mình. Thỉnh thoảng tôi nhìn lên trời, những vị hành tinh đang bắt đầu nhạt nhòa và tia nắng hồng ban mai đang ló dạng đàng sau những cụm mây xám. Nhưng tâm trí của tôi gắn bó với hình ảnh dịu dàng, xinh đẹp của người vợ hiền. Tôi nghe được tiếng hồi đáp, thấy được nụ cười, một ánh mắt nhìn thẳng thắn và an ủi của nàng đang động viên tinh thần của tôi.
Một y' tưởng làm cho tôi sững sờ: lần đầu tiên trong đời, tôi đã thấy được chân ly' đã được các thi nhân dệt thành những áng tho tuyệt vời và được các nhạc sĩ phổ thành nhạc, và cũng đã được các triết gia ca tụng qua những mỹ từ bất hủ. Chân ly'-rằng tình yêu là mục tiêu tối hậu và cao cả nhất mà con người ước ao, mong mõi. Rồi từ đó tôi đã nắm được cái y' nghĩa của sự bí mật lớn lao nhất mà thi văn, tư tưởng và niềm tin đều có cùng một điểm tương đồng: "Cứu vớt linh hồn của nhân loại là xuyên qua tình yêu và trong tình yêu".
Nếu tất cả chúng ta coi tình yêu là mục tiêu tối hậu trong cuộc sống và tin tưởng trong những khả năng hầu như vô giới hạn để ban phát và đón nhận nó, thì cuộc đời có thể sống trong niềm vui bất tận.
Lúc còn là một học sinh Trung Học, tôi rất mê thơ văn của Pháp quốc như: George Sand, Victor Hugo, Alfred de Musset..v.v...Đặc biệt là George Sand. Mới đọc thấy tên, người ta cứ tưởng đây là một nam giới. Đó là bút hiệu của nữ tiểu thuyết gia người Pháp tên là Armentine Lucile Aurore, nữ Bá Tước Dudevant, ra đời tại Ba Lê vào ngày 5 tháng Bảy năm 1804. Bà đã trải qua 3 năm trong Tu Viện và sau đó bỏ đạo để thành lập gia đình với ông Casimir Dudevant, bà đã ly thân với ông này vào năm 1836. Bà gắn bó mật thiết với thi sĩ Alfred de Musset. Sau khi trốn ông này để đi tìm duyên mới, bà cắt tóc và gửi đến cho ông để tỏ niềm hối hận, nhưng ông hoàn toàn không bao giờ tha thứ cho bà. Một cuộc tình lãng mạn khác với nhạc sĩ Fréde1ric Chopin, bà đã sống hết lòng với nhà soạn nhạc dương cầm nổi tiếng này trong nhiều năm. Bà đã qua đời vào ngày 6 tháng 6 năm 1876.
Những cuốn sách sau đây tiêu biểu cho bốn thời kỳ trong cuộc đời của George Sand: Valentine, Jacques và Leone Leoni (mang sắc thái về những sự khó khăn trắc trở trong cuộc sống hôn nhân) Consuelo (nổi bậc trong sự ao ước của bà kêu gọi một cuộc cách mạng xã hội); Francois le champi, La petite Fadette và Les Maitres Sonneurs (đặc biệt nói về vui cảnh điền viên); và Les Marquis de Villemet và Mlle. La Quintinie (tiêu biểu cho những nghiên cứu có tính cách xã hội rộng rãi hơn).
Một thi-văn-hào khác của Pháp quốc, tôi xin trân trọng gửi đến bạn: Victor Hugo, đã có lần ông quì dưới chân và van lơn người tình như thế này: "Chúng ta mãi mãi yêu nhau nghe em! Tình yêu như ngọn lửa không thể dập tắt, như bông hoa không bao giờ tàn". Ông sinh trưởng tại Besancon vào ngày 26 tháng 2 năm 1802. Suốt thời kỳ niên thiếu, ông đã đi chu du lên đến Naples và Madrid cùng với thân phụ là một tướng lảnh dưới triều đại Napoléon Bonaparte. Những cuộc du hành này được những nhà quyền quí và dân chúng tiếp rước trọng thể đã gây một ấn tượng tốt đẹp trong tâm trí đứa bé, vì vậy ông đã không quan tâm gì về cảnh nhà sa sút mà gia đình gặp phải sau khi triều đại Napoléon sụp đổ. Ông chỉ đi đến trường ba năm tại Ba Lê, sự học vấn của Hugo chẳng đi đến đâu cả. Ông là một nhà toán học giỏi và một người ham đọc sách. Tuyển tập thơ đầu tiên của ông được xuất bản khi ông mới hai mươi tuổi đã gây sự chú y' thuận lợi và Hugo đã nhận được một sự trợ cấp mà ông rất cần đến. Ông thành hôn với người tình từ thuở ấu thời, bà Adèle Foucher. Em của ông cũng si tình bà này nên đã bị điên loạn suốt buổi tiệc cưới và người ta phải đưa ông em đi chỗ khác ẩn trú.
Dần dần Hugo phá bỏ những loại văn chương cổ điển chỉ thích hợp trong giới trưởng giả, và vào năm 1827, ông trở nên một nhà tiên phong, một người chủ xướng bước tiến lãng mạn mới trong nền văn chương Pháp quốc. Năm 1830, một vở kịch mang tên Hermani được trình diễn đã mang lại cho ông một số tiền là mười lăm ngàn Phật lăng; năm sau cuốn tiểu thuyết Notre Dame de Paris xuất hiện. Tiếng tăm của ông đã trở nên lẫy lừng nhờ những kịch bản và tiểu thuyết. Kể cả những vở kịch khác cũng được ưa chuộng không kém như: Lucrezia Borgia và Ruy Blas. Vào năm 1841, sau khi ông được bầu vào Hàn-Lâm-Viện Pháp, ông đã lên đến tột đỉnh của danh vọng. Tuy nhiên, hai năm sau đó một vở kịch mới đã thất bại một cách bi thảm; cùng năm đó một trong những đứa con gái của ông bị chết đuối trên dòng sông Seine. Ông tạm thời từ bỏ thơ văn để đi làm chính trị và vào năm 1845 một giai cấp quí tộc mới lại ra đời tại Pháp.
Trong lãnh vực chính trị Hugo thừa can đảm nhưng kém mưu lược và bén nhạy; sau khi hủy diệt nền Cộng Hòa Pháp vào năm 1851 ông bị lưu đày. Ông đã không trở lại Pháp quốc cho mãi đến năm 1870, gần ngày sụp đổ của triều đại thứ hai mà ông rất thù hận. Suốt thời gian bị lưu đày ông vẫn tiếp tục viết. Trong số những sáng tác phẩm của ông là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất Les Misérables (Những kẻ khốn cùng) được viết tại quần đảo Guemsey Anh quốc. Những năm cuối cùng trong cuộc sống lưu đày của ông thật thảm sầu, vợ bỏ ra đi và sau đó từ trần, đứa con gái của ông trốn đi theo viên sĩ quan người Anh. Sau khi trở lại Ba Lê, ông chỉ tham gia chính trị trong một thời gian ngắn. Lúc này, ông đã nổi tiếng khắp hoàn cầu, và vào ngày sinh nhựt thứ 80, ông đã được sáu trăm ngàn dân Pháp tung hô, chúc mừng. Hugo qua đời vào ngày 22 tháng 5 năm 1885, và vào ngày 31 tháng 5 ông được an táng tại nghĩa trang Panthéon. Lời trăn trối cuối cùng của ông- là được đặt xác trong một cổ quan tài của kẻ khốn cùng- Và đã được toại nguyện.
Nhiều khi tôi tự đặt câu hỏi: "Tại sao những danh nhân lẫy lừng lại hay gặp phải những bất hạnh trên con đường tình ái"". Những người có tài thường hay sinh tật chắc". Thưa bạn, tôi đang đứng ngắm nhìn những con tàu nằm trơ vơ trên Vịnh Semiahmoo thơ mộng vào một buổi chiều tắt nắng. Điếu thuốc trên tay tắt ngấm tự bao giờ mà tôi vẫn không hay. Những câu thơ và dòng nhạc đang nhảy múa giao thoa hỗn tạp: "Anh không uống, không ăn và không ngủ, Anh khóc than, than khóc đến bao giờ. Nước mắt anh lầy lội cả nấm mồ, Nhỏ từng giọt xuống thân em lạnh lẽo...". Và tại sao có người lại nhẫn tâm: "Thà rằng người chết đi để cho ta thiên thu sầu, để cho ta còn đớn đau mãi về sau. Thà rằng người chết đi, ngày tháng trong nguyện cầu, tuổi thơ ơi! Kiếp này đành cúi đầu".
Mây-cao-Nguyên

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm Thứ Sáu 26/9, Tổng Biên Tập JEFFREY GOLDBERG của tạp chí The Atlantic gửi ra tuyên bố phản đối lệnh của Ngũ Giác Đài về việc áp đặt, kiểm duyệt báo chí. Tuyên bố ghi rõ: “Về cơ bản, The Atlantic phản đối những hạn chế mà Ngũ Giác Đài đang cố gắng áp đặt đối với các nhà báo đưa tin về vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Những yêu cầu này vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của chúng ta, và quyền của người Mỹ muốn biết hình thức khai triển nguồn lực và nhân sự vốn do tiền thuế của người dân tài trợ. Những quy định này cũng phá vỡ các thông lệ lâu đời - dưới thời tổng thống của cả hai đảng, trong suốt thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng quốc gia - vốn cho phép các phóng viên Ngũ Giác Đài thực hiện công việc của mình mà không bị can thiệp chính trị.” The Atlantic đăng tuyên bố này trên trang mạng xã hội chính thức của tạp chí.
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.