Hôm nay,  

Thăm Chiến Hạm Tại Căn Cứ Hải Quân Den Helder Hòa Lan

13/05/200800:00:00(Xem: 10811)

Chiến Hạm F 802

(Varende Familiedag 09 mei 2008)

Chúng tôi đến căn cứ Hải Quân Den Helder vào một buổi sáng ngày 09-05-2008. Một buổi sáng của nhiều tuần lễ, thời tiết nơi xứ hoa Uất Kim Hương ấm áp, lặng gió, với bầu trời trong xanh và sáng sủa của ngày  mùa xuân, có muôn hoa rực rỡ, thảo mộc như thi nhau đâm chồi nảy lộc; xứ  hiền hòa đất thấp nhưng không có nơi nào thiếu bông hoa, nhất là những vườn được dành để trồng bông lấy củ, thì ta trông như một thảm bông dài bất tận đến tận chân trời. Ôi! Thật là tuyệt vời, một cảnh tượng thần tiên ở hạ giới do muôn loài hoa kết lại.

Đến bãi đậu xe của căn cứ Hải Quân vào lúc 9 giờ, chúng tôi thả bộ đi vào bến cảng, và bước lên cây cầu dẫn lên Chiến Hạm F 802. Vừa bước lên thành tàu, nơi đây đã có Thuỷ thủ đoàn của Chiến Hạm đón tiếp chúng tôi, họ đưa cho mỗi người một bảng chương trình sinh hoạt trên hạm trong ngày, với những dòng chữ nơi trang đầu: Welkom aan boord Hr.Ms.De Zeven Provincien, có hình ảnh của Chiến Hạm với dòng chữ ở bên dưới: Varende Familiedag 09 mei 2008. Trên bong sau của con tàu, có một sân rộng, là bãi đáp của may bay trực thăng, đã được biến thành nơi tiếp tân cho ngày Varende Familiedag, với quầy nước trà, cà-phê, nước ngọt và bánh ngọt, cung ứng cho khách mời theo nhu cầu của mỗi người; ngoài sân bong rộng, từng nhóm theo gia đình cùng có sự hiện diện của chồng, cha hay con, em là thủy thủ hay thân hữu, đang vui  mừng trò truyện, giới thiệu bạn mới và làm quen. Không khí thân thương đúng với tinh thần ngày gia đình của Chiến Hạm (Varende Familiedag).

Chiến hạm Hr.Ms.De Zeven Provincien F 802.

Được khởi công ngày 01-09-1998.

Hạ thủy ngày 08-04-2000.

Chiều dài 144,20 mét.

Chiều ngang  17,50 mét.

Nặng 6050 ton (beladen).

Vận tốc tối đa là 30 meile/45 km một giờ.

9 giờ 30, vị phụ tá của hạm trưởng hướng dẫn khách tham dự ngày Varende Familiedag, về cách xử dụng những phao cứu cấp cá nhân, khi gặp hữu sự trên tàu trong ngày tham quan. Chỉ dẫn các bảng hiệu, đường đi, cửa thoát hiểm trên hạm. Sau đó, Đại Tá Hạm Trưởng R.J.A.M. Ramaekers (Kapitein ter zee), thay mặt toàn bộ thủy thủ đoàn của Chiến Hạm, ngỏ lời chào mừng khách của ngày Varende Familiedag, và hy vọng quý vị sẽ có một ngày thật thoải mái và vui với các thuỷ thủy nam, nữ ở trên tàu. Hôm nay ngoài Chiến Hạm Hr.Ms.De Zeven Provincien F 802 còn có Chiến Hạm Hr.Ms. De Ruyter F 804 là chị em cùng chung một ngày Varende Familiedag. Được biết số khách tham dự ngày gia đình của chiến hạm của F 802 là 628 người, và chiến hạm chị em bên cạnh cũng tương tự.

Sau lời chào mừng của Đại Tá Hạm Trưởng,  con tàu từ từ rời bến cảng ra khơi, khoảng 30 phút sau, khách được xem biểu diễn, trực thăng thả người qua hệ thống dây cáp xuống những con thuyền nhỏ, có người lâm nạn, đưa nạn nhân lên trực thăng để đem đi cứu cấp. Tiếp đến là việc cứu cấp những nạn nhân đang bơi trên biển, để đưa lên trực thăng. Rồi những màn đu dây từ trực thăng để sà xuống gần mặt nước biển của các biểu diễn viên là thủy thủ nữ rất ngoạn mục. Sau màn biểu diễn cứu người lâm nạn trên biển khơi, Chiến Hạm cho con tày chạy từ vận tốc chậm, đến vận tốc tối đa trên biển cho khách thưởng thức, độ nhanh, sức gió cản của biển khơi với con tàu.

11 giờ 15 đến 13 giờ, con tàu chạy thật chậm, để mọi người ăn trưa với thực đơn Indonesische Rijsttafel; mỗi người theo thứ tự, tự lấy phần ăn của mình, tìm một bàn trống trên bong tàu để vừa ăn, vừa trò truyện, thưởng thức món ăn, nhìn bầu trời trong xanh, hưởng cái nắng ấm áp, dịu dàng giữa biển khơi. Thật tuyệt vời cho những khách tham dự ngày Varende Familiedag.

Sau 13 giờ là những màn biểu diễn của hai phản lực cơ 2L-39 Albatros vliegtuigen, và hệ thống phòng không được thiết bị trên chiến hạm, hai phản lực cơ đã bay lượn nhiều vòng trên hai chiến hạm, có những lần bay rất sát mặt nước.

Xen kẽ vào những lần biểu diễn, thủy thủ đưa, dẫn chính thân nhân đi tham quan chiến hạm như:  men theo một hành lang dài chúng tôi đi ra phía trước, đầu tàu, có một khẩu đại bắc, lòng súng chĩa ra biển khơi về phía trước. Sau vị trí của khẩu đại bác là nhiều hàng ô vuông có đậy nắp, nơi đây là hệ thống hỏa tiễn phòng không được gắn chìm ở trong lòng tàu, được phóng đi khi phát hiện có phi cơ địch tấn công từ xa; leo qua cầu thang để lên đài chỉ huy, nơi đại bộ phận điều khiển chiến hạm, với nhiều màn hình, nhiều computer và thiết bị. Rồi tham quan phòng họp tham mưu cuả chiến hạm, văn phòng làm việc của Hạm Trưởng, nơi ở, và những tiện nghi dành cho vị Hạm Trưởng ở trên tàu. Sau đó chúng tôi đi xuống tầng thứ hai và thứ ba để tham quan nơi làm việc và nghỉ ngơi của các sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ, nhà bếp, phòng ăn, nơi sinh hoạt . . . Thăm đến phòng nơi làm việc của y sĩ, gồm có một phòng cho bệnh nhân nằm điều trị gồm có bốn ngường bệnh, một phòng khám bệnh của bác sĩ, một phòng khám răng cho nha sĩ. Thật ngăn nắp, sạch sẽ.

Vào buổi chiều, Chiến Hạm quay đầu trở về điểm khởi hành ban sáng, là căn cứ Hải Quân Den Helder. Trước khi chiến hạm cập bến, vị Hạm Trưởng lại một lần nữa cám ơn các gia đình đã đến tham dự ngày Varende Familiedag, sau đó khách lần lượt bước xuống khỏi tàu. Chúng tôi ra về sau một ngày được du hành trên biển khơi bằng Chiến Hạm, chính Chiến Hạm này sẽ đưa đoàn Thủy Thủ, trong có người con thân thương của chúng tôi, đi đến những vùng có chiến tranh hay bất ổn, để làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh, theo sứ mạng của tổ quốc Hòa Lan đã trao cho họ.

Thấy người mà chạnh lòng nghĩ đến Việt Nam.

Là người Việt Nam, đã phải sống giữa hai ý thức hệ.  Nên từ ngày chào đời, tôi ôm ấp cả tuổi thơ bằng đêm thì nghe súng đạn nổ, ngày thì chứng kiến những cuộc hành quân của quân đội Pháp và Quân đội Quốc Gia; cắp sách đến trường làng phải men theo các bờ ruộng lúa, trên đầu có máy bay thám thính của quân đội Quốc Gia lượn tới, lượn lui, vì nghi là du kích quân Cộng Sản, đơn vị hành quân của phe Quốc Gia gần đó thì nã những tràng đại liên bay xì xèo bên tai. Làng quê hiền hòa, dân quê chất phác, muốn sống yên lành, nhưng do lòng dạ và ham muốn của con người đã gây ra bao cảnh điêu linh, đất nước loạn ly, dân lành khốn khổ. Hiệp Định Paris ra đời năm 1954, nhiều gia đình ở quê tôi đã cuốn gói chạy vào Nam, vì không muốn sống chung dưới chế độ Cộng Sản.

Tôi phải rời bỏ quê hương miền Bắc lúc vừa tròn 10 tuổi, đi theo cha mẹ và các em của tôi, hành trang chính vẫn là con người, vì các em tôi con nhỏ, phải bồng, bế và cõng trên lưng vì đi đường bộ, chỉ mang theo được vài túi cói nhỏ quần áo và vật dụng cần thiết. Chắc là thảm thiết hơn những người tỵ nạn Somany, Afganistan mà chúng ta nhìn thấy trên tin tức của truyền hình trong thời gian gần đây, vì  họ còn biết dùng, lừa, bò, ngựa để đem theo những vật dụng. Người tỵ nạn miền Bắc 1954 từ nhiều ngõ ngách làng quê tìm đường về Hà Nội bằng đủ mọi phương tiện: đi bộ, đi thuyền, đi xe đò, xe lửa. Rồi từ Hà Nội mới đi xe lửa đến Hải Phòng. Vì Hải Phòng mới là thành phố cảng, nơi đó còn căn cứ hải Quân của quân đội Quốc Gia, còn có các phương tiện chuyên chở của các nước tư bản, muốn cứu giúp những người dân của miền Bắc tránh nạn Cộng Sản đi vào miền Nam. Nên cảng Hải Phòng là điểm hẹn của đoàn người di cư.

Khi bước chân xuống cảng Sài Gòn của miền Nam Tự Do, người di cư tỵ nạn được đưa đến các trại tạm cư, được giúp đỡ về vật chất như lương thực, săn sóc sức khoẻ, phương tiện để tạo dựng cuộc sống mới như : cây, ván, tôn để dựng nhà, dựng Chùa, dựng nhà Thờ, dựng trường học. Hai mươi năm ở miền Nam Tự Do, 9 năm đầu tiên dưới thời của Tổng Thống Ngô Đình Diệm được xem là vàng son và lý tưởng; dân không nghèo, đói và còn sung túc, có tự do dân chủ, nhưng không hoàn hảo như các nước phương tây, vì mới độc lập, còn lệ thuộc nước ngoài về tài chánh, dân trí còn thấp. 11 năm còn lại của hai mươi năm miền Nam có tự do, nhưng đời sống kinh tế bấp bênh, chính trị không ổn định vì tình hình Cộng Sản miền Bắc muốn gia tăng áp lực xâm lăng miền Nam.

Khi hai ý thức hệ tìm cách hòa bình và sống chung.

Tình hình thế giới đã biến đổi, sau khi Mỹ bắt tay với Trung Cộng và bỏ Nam Việt Nam. Miền Bắc được Trung Cộng và Nga Xô trợ giúp, tiến quân gọi là giải phóng miền Nam Việt Nam, thống nhất đất nước. Lý thuyết xem ra thật tuyệt vời, thật đẹp vì đã chấm dứt được chiến tranh, tuy không còn cảnh tang tóc diễn ra hàng ngày do pháo nổ, đạn rơi. Nhưng cảnh thanh trừng ly biệt, cải tạo, kinh tế mới, vượt biên, vượt biển lại là một thảm trạng mới, gieo nhiều đau thương và tang tóc, hận thù, còn phải trải qua nhiều thế hệ mới hàn gắn được.

Khuyết điểm lớn lao trong các chế độ độc tài.

Với thời gian Đảng Cộng Sản Việt Nam từ từ biến chất, thủa đầu với đôi dép râu, chiếc nón cối, khẩu AK,  tiến vào giải phóng miền Nam, biến miền Nam đang trù phú, trở thành nghèo đói xác sơ ngang bằng với miền Bắc. Sau đó từ từ tiến lên không phải là Chủ Nghĩa Xã Hội, mà là Chủ Nghĩa Tư Bản Đỏ, dép râu nón cối một hình ảnh thân thương với người dân lao động nghèo khó, nay được thay bằng giầy bóng, dép da, đầu bóng láng với những bộ Complê cà vạt phẳng phưu; chủ nhân những ngôi biệt thự sang trọng nhất thành phố, trong khi lớp bình dân lao động vẫn sống âm thầm trong những căn nhà vách ván cũ rích với mái tôn rỉ xét; cơm độ nhật qua ngày thiếu ăn, vì vật giá leo thang phi mã, áo che thân thiếu mặc. Thì việc ăn xài phung phí, ăn cắp của công, tham nhũng, mua quan bán tước của các quan chức nhà nước XHCN, tràn lan khắp hang cùng ngõ hẻm, từ thành thị đến thôn quê. Chuyện đuổi nhà chiếm đất để bán cho nước ngoài dựng công xưởng, làm sân gôn để khai thác lao động rẻ mạt ở Việt Nam, đã tạo ra lớp Dân Oan khiếu kiện có mặt la liệt ở các cơ quan công quyền, và ở các đô thị quan trọng của Việt Nam.

33 năm sau, đất nước được hoàn toàn giải phóng và thống nhất, đáng ra phải được phát triển và trở nên giầu có, ít ra cũng chạy đuổi theo kịp các nước ở trong Vùng như Thái Lan, Phi Luật Tân,  không dám so sánh với Nhật Bản, Nam Hàn, Singapore. Đàng này từ ngày thống nhất được đất nước, đất nước ta đã phải bán sức lao động của hàng triệu người trẻ ra nước ngoài, để làm thuê, làm mướn, ở đợ, thậm chí còn đi làm điếm ở các nước trong vùng, sang mãi tận đến Âu Châu. Trong lịch sử nước Việt, chưa có thời nào đen tối như thời Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo đất nước. Miệng lưỡi  lừa đảo của ĐCSVN đã thay đen đổi trắng với người Việt ở hải ngoại, từ những cụm từ: “ Phản bội tổ quốc, tụi đĩ điếm cặn bã của xã hội cũ, lười lao động nên đã trốn đi vượt biên theo Mỹ”. Lớp người từng bị theo dõi ngày đêm, bị bắt bớ và cầm tù khi bỏ nước trốn đi, nay đổi ngược chiều cách xưng hô với những người Việt Nam ở hải ngoại: “ Những người con thân yêu của tổ quốc, khúc ruột ngàn dặm” và thật hôi hám, dơ dáy, trơ trẽn hơn nữa khi đưa ra nghị quyết số  36/NQ-TW ngày 26-03-2004 của Bộ Chíng Trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Là người Việt vượt biên sống ở nước ngoài, tôi cảm thấy thật tủi hổ cho dân tộc tôi, mỗi khi nghe tin, đọc báo trên các phương tiện truyền thông.

Các chính sách như: giáo dục thì chắp vá, nhồi nhét, bắt học sinh, sinh viên phải học  những tư tưởng thời thượng về Chủ Nghĩa Xã Hội hoang tưởng của Mác-Lê, mà chính cái nôi sản sinh ra chủ nghiã ấy đã ném nó vào sọt rác từ những năm 1989-1990. Cái thảm trạng của nền giáo dục Việt Nam là nổi tiếng học vẹt, bằng cấp thì giả, tiến sĩ giấy thì đông, nhân tài thật thì ít; giáo dục cho thế hệ trẻ không tự chủ, phải dựa vào mô hình của nhà nước đề ra cho mình, giết chết óc sáng tạo, không có quyền và không được độc lập về các tư tưởng và sáng tạo của mình. Nhất là quyền Tự Do Tư Tưởng, tiếp nhận và loan truyền những tư tưởng mới lạ của người khác, của dân tộc khác. Đáng lẽ đất nước ta phải tiến lên nhanh lắm, sau khi đã có hòa bình thống nhất. Nhưng vì do một chính quyền độc đảng, lại là Đảng CSVN lãnh đạo đất nước, nên đất nước ta cái gì cũng băng họai và trì trệ, cái gì cũng nhất theo lối tính ngược. Tham nhũng nhất thế giới, nghèo khó gần nhất thế giới, chỉ hơn Phi Châu.

Y tế thì thật tồi tệ, vào bệnh viện, thủ tục đầu tiên vẫn là “ Tiền Đâu”, chứ không phải bệnh tình thế nào để kịp thời cứu cấp, nghèo khó không tiền thì nằm lăn lóc chờ chết, hai người một gường hay ba người hai gường, kể cả những sản phụ khi sinh con. Y tế của công quyền đã vậy. Y dược ngoài thị trường thì thuốc thật, thuốc giả khó mà nhận ra, người thua thiệt vẫn là những bệnh nhân nghèo khó. Kinh tế thì hàng giả, hàng thật khó mà kiểm soát được vì nạn tham nhũng từ trên thượng tầng cho đến người cảnh sát viên khu vực. Heo, gà bệnh dịch mà chết, thú y ra lệnh chôn ban ngày, ban đêm đào lên làm thịt, đem cung cấp cho các cửa hàng biến chế thành thực phẩm, rồi cung cấp ra thị trường cho công chúng dùng. Phần lớn dân nghèo không đủ tiền mua thực phẩm đắt đỏ, phải tìm những thứ rẻ để mua, và người nghèo trong chế độ Cộng Sản là người thua thiệt nhất, nghịch với chủ thuyết họ chủ trương.

Ưu điểm của các nước Tự Do Dân Chủ.

Người tỵ nạn thủa đầu đến định cư ở một quốc gia, chúng tôi được giúp đỡ thật nhiều thứ. Trước hết là phương tiện và lương thực, được vớt lên từ biển khơi, hay nhận nhân đạo từ các trại tỵ nạn ở vùng Đông Nam Á, các quốc gia đã chấp nhận cho định cư, họ phải cung cấp phương tiện di chuyển, chỗ ở, tài chánh. Sau đó được lo về sức khỏe, khám tổng quát, nếu có những bệnh nan y thì khẩn cấp được đưa đi điều trị cẩn thận; chụp hình phổi, khám răng; thiết lập hồ sơ về bảo hiểm sức khoẻ, riêng một số quốc gia ở Âu Châu thì mỗi người đều có Bảo Hiểm Sức Khoẻ, mọi sự khám bệnh, chữa trị đều được miễn phí. Sau đó trẻ em và người lớn đều được cắp sách đến trường, để học ngôn ngữ và học phổng thông tùy theo tuổi tác và trình độ, còn được đào tạo về nghề chuyên môn cho những ai muốn và có khả năng học. Mỗi gia đình hay những người trên 18 tuổi còn độc thân thì được lo liệu cho một căn hộ để cư ngụ. Phần đông các cá nhân hay những gia đình người tỵ nạn đều có những người bản xứ đứng ra lo giúp đỡ buổi ban đầu, họ là những người làm việc thiện nguyện còn gọi là Bạn của gia đình mới đến. Trong cơ cấu làm việc của người bản xứ họ có các Cán Sự Xã Hội để lo cho người dân của họ, cũng như cho người mới nhập cư, về nhiều vấn đề xã hội như: nhà ở, tiền trợ cấp, việc làm, việc đến trường của con. . .  .

Được hội họp và biểu tình.

Ở các xứ tư bản, hội họp trong nhà là một chuyện bình thường, không cần xin phép chính quyền; hội bao nhiêu người, bao nhiêu ngày tùy ý, đừng làm ồn ào phiền lụy đến hàng xóm. Nhưng nếu muốn biểu dương đoàn thể, tổ chức, tiếng nói của cá nhân hay của tập thể ở bên ngoài thì phải xin phép, để cơ quan công lực của nhà cầm quyền giữ gìn an ninh trật tự, điều hành lưu thông và đảm bao an ninh cho người đi biểu tình. Chỉ khi nào cuộc biểu tình có xẩy ra bạo động thì cảnh sát mới can thiệp. Thường những cuộc biểu tình, ban tổ chức phải thông báo cho các cơ quan truyền thông, để nhờ họ loan báo trên các phương tiện truyền thông của họ, khác với lối lừa đảo về tự do theo kiểu của Cộng Sản ở Việt Nam cấm chụp hình đưa tin, chỉ có báo của Đảng và nhà nước là được loan báo điều gì thì loan. Cái quái gở của chủ nghĩa Cộng Sản ở nước ta là không có báo của tư nhân, chỉ có báo của nhà nước, hoặc của những đoàn thể, tổ chức của nhà nước. Đoàn thể, tổ chức  tư nhân không được ra báo.

Được hưởng một nền giáo dục nhân bản.

Được tự do học tập, giáo dục là một ngành quan trọng ở các nước tư bản, giáo dục bắt buộc ở bậc tiểu học và phổng thông cấp I , không phải trả học phí, không phải học thêm và cũng không có nạn thầy, cô dậy kèm. Em nào thông minh, chăm học thì cứ từ từ tiến lên, học xong cấp ba là vào đại học, không bị kỳ thị khi phải chọn trường, chọn ngành. Học chuyên nghiệp, cao đẳng hay đại học thì có học bổng, với điều kiện người đi học phải học xong chương trình, trong một thời gian do bộ giáo dục ấn định. (Theo đúng như điều 26 của Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc ban hành ngày 10-12-1948).

Phải đóng thuế, căn cứ vào lợi tức của cá nhân.

Khi đi làm, việc ấn định lương bổng căn cứ vào mảnh bằng người đi làm có. Là người công dân thì mọi người có bổn phận phải đóng thuế, nếu đóng qúa mức có quyền xin lại hàng năm. Và người nào khi được chính thức cư ngụ tại đất nước của họ cũng có một mã số để khai thuế riêng, không thể trốn tránh vì rất hiếm nhân viên của nhà nước tham nhũng.

Được thừa hưởng nền Tự Do Dân Chủ và Nhân Quyền ở các nước Châu Âu, tôi muốn viết ra để người trong nước đọc, nhất là giới trẻ. Không có ý nói xấu đất nước mình, mà chỉ muốn nói lên vì nguyên do nào tạo ra cho đất nước ta nhiều tệ nạn, nghèo đói và chậm tiến. Từ 70 năm qua, dân tộc Việt Nam, nhất là các thế hệ trẻ, hết thế hệ này sang thế hệ khác, chúng ta đã bị Đảng lừa gạt. Đất nước ta chỉ có tự do dân chủ và Nhân Quyền trên giấy tờ, trên môi miệng các nhà lãnh đạo, đề lừa dân, và qua mặt thế giới bên ngoài. Chỉ khi nào Việt Nam có bầu cử Tự Do ( không còn cái nạn Đảng cử dân bầu), thì lúc đó dân ta mới thực sự có quyền chọn mặt gởi vàng, cử ra những người tài năng và đức độ, họp thành một Quốc Hội, làm ra Hiến Pháp, luật lệ để cai trị dân, khi đó đất nước mới tiến lên.

Bao lâu còn một đảng độc tài, các người ứng cử viên được chọn vào tòa nhà Lập Pháp do Đảng đề cử ra, rồi sau đó người dân chỉ việc đi bầu chọn, thì khi đó chưa có dân chủ. Vì Đảng sẽ chọn những người của Đảng, yêu Đảng, chứ không phải là người yêu dân, yêu nước Việt Nam. Những người yêu Đảng, thì họ phải vào phe cánh với nhau để duy trì Đảng, tham ô hối lộ và vơ vét tài nguyên của tổ quốc làm giầu cho cá nhân, gia đình và Đảng của họ. Mọi người Việt Nam, dù ở trong nước hay hải ngoại, đều có một tâm tình yêu Quê Hương, yêu đất nước Việt Nam chứ không phải yêu Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Ngược thời gian 25 năm trước, khi chuyến hải hành sinh tử tìm Tự Do, muốn ngó thấy con thuyền vượt biên  từ đàng xa, đã là khó khăn và nguy hiểm. Nhưng khi đến được một mất nước có Tự Do, 25 năm sau, khi người vượt biên ngày đó bé tý, nay đã trưởng thành, và là bác sĩ cho một đơn vị Hải Quân, thì ngày chuẩn bị ra đi công tác, thân nhân được đến tham quan con tàu, được đi thử, được xem biểu diễn cách cứu người trên biển khi lâm nguy của lực lượng hải hành. Thật như một giấc mơ. Đây đúng là hoa trái của của các chế độ Tự Do và Dân Chủ. Phần thưởng cao qúy trả cho những ngày lận đận vượt biên thủa trước./-

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm Thứ Sáu 26/9, Tổng Biên Tập JEFFREY GOLDBERG của tạp chí The Atlantic gửi ra tuyên bố phản đối lệnh của Ngũ Giác Đài về việc áp đặt, kiểm duyệt báo chí. Tuyên bố ghi rõ: “Về cơ bản, The Atlantic phản đối những hạn chế mà Ngũ Giác Đài đang cố gắng áp đặt đối với các nhà báo đưa tin về vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Những yêu cầu này vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của chúng ta, và quyền của người Mỹ muốn biết hình thức khai triển nguồn lực và nhân sự vốn do tiền thuế của người dân tài trợ. Những quy định này cũng phá vỡ các thông lệ lâu đời - dưới thời tổng thống của cả hai đảng, trong suốt thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng quốc gia - vốn cho phép các phóng viên Ngũ Giác Đài thực hiện công việc của mình mà không bị can thiệp chính trị.” The Atlantic đăng tuyên bố này trên trang mạng xã hội chính thức của tạp chí.
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.