Hôm nay,  

Quan Niệm Về Thiền Và Tịnh Của Thiền Sư Bạch An

5/16/200800:00:00(View: 10951)

(Trích đoạn từ “Thiên chân chánh” – Bạch Ẩn Huệ Hạc)

Hãy nhìn xem các vị Tổ sư thiền xưa kia có phong cách phi thường như thế nào. Ngày nay những hành giả tu thiền có bao nhiêu người giống được như vậy" Hầu hết chưa thể qua được hàng rào công án do những bậc thầy kiệt xuất này lập ra, nên họ không thể thẩm thấu được cái tinh túy chân lý hàm chứa trong những công án này, và ngọn lửa bức xúc vẫn cháy bừng trong tâm họ.

Họ sẽ không có được một giây phút nào an bình trong cuộc đời. Họ giống như những người bị bệnh kinh niên hành hạ từng hồi mỗi ngày. Họ cố tọa thiền trong năm bảy ngày rồi bỏ cuộc và bắt đầu đi ra lễ lạy trước tượng Phật. Năm ngày sau, họ lại bỏ cuộc rồi bắt đầu tụng kinh. Họ tiếp tục được năm bảy ngày rồi chuyển qua ăn uống kham khổ, ăn chỉ một bữa trong ngày. Họ giống như người bị bệnh nặng phải nằm ở trên giường, không ngủ được muốn ngồi lên, nhưng rồi thấy cũng không làm được đều đó. Họ mò mẫm đi như những con lừa mù. Không biết bước chân mình sẽ đi đến đâu. Và tất cả chỉ vì lúc đầu giải đãi. Nên họ không thể nào đạt được sự thấu phá đưa đến niềm vui ào ạt bao la của chứng ngộ.

Thường tình thì một người tu thiền sẽ bỏ ra khoảng ba, năm, có khi bảy năm để tực tập tọa thiền. Nhưng vì người ấy không để hết tâm sức vào đó, nên họ không đạt được sự nhất quán, và cách tu của họ không đem lại kết quả gì. Năm tháng trôi qua nhưng họ không kinh nghiệm được niềm vui niết bàn, và nghiệp báo luôn chờ đợi họ nếu họ ngưng lại hay lùi bước. Lúc đó họ quay qua niệm hồng danh Phật A Di Đà và hết sức trì niệm, hăng hái ước nguyện sẽ được vảng sanh về cõi tịnh độ, bỏ đi chí nguyện trước đây : Muốn thấy cho được chân lý trên con đường đạo. Ở Trung Quốc, những người thuộc giới này xuất hiện rất nhiều trong triều đại nhà Tống, còn tiếp tục cho đến đời nhà Minh, và cho đến ngày nay. Hầu hết bọn họ là các nhà tu thiền thuộc loại tầm thường, hèn yếu, không có chút nhuệ khí.

Để lấp liếm và che giấu mặc cảm thất bại, họ vội vàng đưa ra những thí dụ về sự tái sinh nơi tịnh độ của các bậc thiền sư như Chieh của núi Wu-tse, Hsin-ju Che, và I của Tuan-ya, để đưa ra kết luận rằng : thực tập tọa thiền không có ích lợi gì. Có điều dường như họ không biết là những người này thực ra đã khởi tu pháp môn niệm Phật ngay từ lúc đầu. Than ôi! Trong sự hăng say muốn tìm sự hỗ trợ cho những quan niệm đầy định kiến và tầm thường của mình, họ đã đem trường hợp của những kẻ phàm phu không đủ nghị lực tinh tấn kiên trì trên đường tu thiền ví với những bậc thánh tăng đã khế hội được pháp vi diệu sống thực được truyền thừa, khiến cho giá trị của chư vị bị giảm đi. Quả là họ đã hủy báng tinh túy huyền vi không thể nghĩ bàn đã được các vị thánh tăng truyền trao cho nhau từ đời nọ qua đời kia. Họ đã phạm vào những lỗi lầm nghiêm trọng hơn cả năm tội ngũ nghịch. Không có cách gì khiến họ biết tỉnh ra để mà sám hối.

Trên căn bản, không có tịnh độ nào hiện hữu ngoài thiền. Không có tâm nào Phật nào tách biệt ngoài thiền. Lục tổ Huệ Năng đã thị hiện xuất thế từ một quá trình đạo sư của tám mươi kiếp liên tục trước đó. Thiền sư nam Nhạc là hiện thân của tất cả ba cõi quá khứ hiện tại và vị lai. Họ là những đại dương rộng lớn của sự an định vô biên, là những bầu trời cao mênh mông trong sáng không còn chút dấu vế, không còn gì để tái sinh trở lại kiếp người, vào nơi cực lạc hay nơi cõi trời, mà cũng là vô sanh. Cõi thiên đàng đầy niềm vui hay cõi địa ngục khủng khiếp, cõi giới bất tịnh hay một cõi tịnh độ đều là những mặt của viên ngọc Như Ý vận chuyển tự do và dễ dàng trên một cái khay. Nếu có một ý niệm nắm bắt khởi lên, dù là nhỏ nhặt nhất, ta sẽ như một con người ngông cuồng muốn bắt một con rồng mà cố múc nước từ sông lên.

Nếu sơ Tổ của thiền tông là Bồ Đề Đạt Ma cho rằng, cứu cánh tối thượng của Phật pháp chỉ là ước nguyện vãng sanh về cõi tịnh độ, thì ngài chỉ cần gởi một lá thư sang Trung Hoa với đôi dòng thế này “Hãy cố đạt được vãng sanh nơi Tịnh độ bằng cách nhiếp tâm niệm Phật không ngừng”, đâu có gì khiến ngài phải vượt qua hàng muôn dặm hải lý đại đương sống gió hiểm nguy, chịu bao gian lao cực khổ, để trao truyền pháp KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT"

Những ai nghĩ rằng pháp môn Tịnh độ xa lìa với thiền, có biết trong kinh Quán A Di Đà có một đoạn nói về thân Phật A Di Đà cao bằng “10 ức dặm x với số lượng nhiều bằng số cát trong 60 sông hằng hợp lại”" Họ phải quán tưởng, nghiền ngẫm cho kỹ về đoạn này. Nếu cách quán thân Phật không phải là cách để đạt được sự giác ngộ vô thượng, nếu muốn cho tâm giác ngộ mà không quán chiếu chính bản tánh của mình thì đó là cách gì "

Một vị Tổ Tịnh độ là Eshin Sozu đã nói “Nếu có niềm tin lớn mạnh, bạn sẽ thấy được Phật trước mắt”. Tu thiền là làm cho bạn khai mở được tâm mình, để thấy vị Phật xưa đáng kính ngưỡng ở ngay trước mắt mình, thật hiển nhiển và rõ ràng. Nếu bạn muốn tìm vị Phật đó ở những chốn nào ngoài mình, hãy gia nhập vào hàng ngũ ác ma đang cố tìm cách hủy hoại Phật pháp đi! Trong kinh Kim Cang, Đức Phật đã nói :

Nếu lấy sắc cầu ta

Lấy âm thanh cầu ta

Kẻ ấy hành đạo tà

Không thấy được Như Lai

Tất cả những vị Phật, đều có ba thân : Pháp thân, luôn thường trú và hiển hiện khắp mọi nơi. Báo thân, sự thanh tịnh hoàn hảo. Hóa thân, như đức Thích Ca Mâu Ni được mô tả như sự “kiên trì nhẫn nhục trong an định”. Trong chúng sanh hữu tình, ba thân này được hiển hiện như là định, tuệ và sự sự vô ngại. Định ứng với pháp thân. Tuệ ứng với báo thân. Sự sự vô ngại ứng với hóa thân.

Tổ Bồ Đề Đạt Ma nói “Khi chúng sanh tạo những việc lành thì hóa thân hiện. Khi tu trí tuệ thì báo thân hiện. Khi giác ngộ pháp vô vi thì pháp thân hiện. Bay khắp mười phương tùy nghi hóa độ chúng sanh là hóa thân vậy. Dứt trừ nghi hoặc thành đạo nơi núi Tuyết là báo thân vậy. Không nói, không làm, không sở đắc, yên lặng thường trụ là pháp thân vậy. Xét cho cùng một Phật còn không có, huống là ba "

Nói đến ba thân Phật, là dựa vào căn cơ con người có thượng, trung, hạ căn. Kẻ hạ căn chỉ vọng cầu lấy phước, chỉ mong thấy được hóa thân Phật. Kẻ Trung căn vọng cầu dứt đoạn phiền não, chỉ mong thấy được báo thân Phật. Người thượng căn vọng chứng bồ đề, mong thấy pháp thân Phật. Người thượng thượng trí, bên trong sáng tỏ vắng lặng. Tâm sáng tức là Phật. Không đợi tâm mà Phật quả vẫn thành. Mới biết ba thân cũng như mọi pháp khác đều không thể nắm bắt, cũng không thể nói ra. Đó tức là tâm giải thoát, tự thành đại đạo. Kinh nói “Phật không thuyết pháp, không độ chúng sinh và cũng chẳng chứng bồ đề” là ý nghĩa đó vậy”.

Tổ Hoàng Bá nói “Pháp do pháp thân giảng, không thể lấy ngôn ngữ, âm thanh, hình tướng, văn tự mà cầu. Pháp này không thuyết giảng, không chứng đắc, tự tính rỗng không thông suốt mà thôi. Cho nên trong kinh Kim Cang nói ‘Không pháp nào có thể giảng được. Pháp giảng mà không giảng đó mới chính thực là giảng pháp’. Báo thân hóa thân đều từ cơ duyên cảm ứng mà hiển hiện. Cho nên các pháp do hóa thân giảng cũng tùy sự việc, ứng căn cơ mà dùng để tiếp dẫn giáo hóa. Tất cả pháp này đều không phải là pháp chân thật. Cho nên nói ‘báo và hóa thân không phải là Phật thực, cũng không phải là thân thuyết pháp”.

Bạn phải nhận thức rằng, tuy Phật ứng hiện vào vô số chúng sanh đủ loại, đủ cỡ, lớn hay nhỏ, nhưng bao giờ cũng thể hiện qua ba thân Phật này thôi. Kinh Kim Quang Pháp Vương nói “Như thế, đạo vô thượng được thành tựu đều có ba thân Phật. Trong ba thân này, báo và hóa chỉ là những tên gọi tạm thời. Chỉ có pháp thân mới là chân thật, thường hằng và bất biến, là cội nguồn căn bản của hai thân kia”.

Như vậy, có ai nói cho tôi biết cái thân khổng lồ mà kinh Quán A Di Đà đã nói “10 ức dặm x với số lượng nhiều bằng số cát trong 60 sông hằng hợp lại” đó là hóa thân, báo thân hay pháp thân"

Chúng ta đã nghe, báo thân và hóa thân là do Phật độ chúng sanh bằng cách tùy phương tiện mà ứng hiện. Nhưng một thế giới phải lớn bằng chừng nào mới chứa được một vị Phật vĩ đại như thế" Bạn có tưởng tượng ra được tầm cỡ của chúng sanh nào được vị Phật ấy ứng hiện vào không" Và cũng đừng nói rằng những chúng sinh trong cõi tịnh độ lớn lao như vậy cũng phải to lớn như vậy, Phật thị hiện trong cõi giới ấy cũng to lớn như vậy. Nếu điều này có thực, phải chăng những vị Bồ tát, những người đi cầu đạo và tất cả những chúng sanh khác sống trong cõi giới ấy cũng đều phải có một tầm cỡ lớn như là “10 ức dặm x với số lượng nhiều bằng số cát trong 60 sông hằng hợp lại”.

Một con sông lớn như sông Hằng có chiều ngang tới 40 dặm (Nhật). Những hạt cát nhỏ và mịn như những tinh thể vi tế nhất. Dù cho quỉ thần, cũng không thể đếm được số cát trong sông Hằng, hay là nửa sông Hằng đi nữa. Dù có mắt Phật thông suốt hết tất cả cũng không thể đếm được. Thế thì trong bản chất, đó là những con số không thể định lượng. Đó là sự tính toán vượt ra ngoài tính toán. Tuy nhiên trong đó hàm chứa một chân lý sâu sắc khó nắm bắt nhất, hơn tất cả các điều nói trong kinh sách khác của Phật. Đó chính là cốt tủy kim quang của Vô Lượng Thọ Phật vậy.

Nếu có nói được một chút gì về vấn đề này, tôi sẽ nói rằng cát trong 60 mươi sông Hằng là ngụ ý nói về sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, chính là sáu trần, đối tượng của sáu căn trong chúng ta. Không có một pháp nào trên thế gian biến thiên này lại không có sáu trần ấy. Khi bạn giác ngộ được rằng tất cả các pháp đều được nhận biết là sáu trần tự hiện tướng như thế, bạn sẽ thấy được thân kim sắc của Vô Lượng Thọ Phật một cách toàn diện. Bạn sẽ vượt qua được biển khổ luân hồi ngay tại chỗ đang đứng và thể nhập được sự giác ngộ toàn hảo vô lượng.

Lúc đó, khắp nơi nơi, từ đông sang tây, đều là cõi Liên hoa tịnh độ. Tất cả pháp giới trong vũ trụ này, trong khắp mọi phương hướng, không chừa một chỗ nhỏ nào, đều ở trong sự an định vô biên như báo thân Phật nguyên thủy. Sự an định đó thẩm thấu tới tất cả pháp giới chúng sanh, sẽ xóa mờ đi mọi sự phân biệt, và mãi mãi hằng thường như thế, không có đổi thay.

Kinh Quán A Di Đà còn nói rằng những người nào đọc tụng các kinh Đại thừa là ở trong hàng cao nhất của những người thượng căn đã được vảng sanh vào cõi tịnh độ của Vô Lượng Thọ Phật A Di Đà. Cái gì là kinh Đại thừa" Đó không phải là bản kinh bằng giấy vàng cuộn lại với lõi cầm màu đỏ. Chắc chắn rằng, không có chút nghi ngờ nào, kinh Đại thừa chính là nói đến tâm Phật nguyên thủy đã có sẵn ngay trong nhà ngũ uẩn này của chúng ta.

Như vậy, dựa trên căn bản nào mà những kẻ ngông cuồng nói tu thiền là không có lợi ích gì "

  Bạch Ẩn Huệ Hạc

  Ngọc Bảo dịch

(Thiền Viện Thường Chiếu)

(Thư Viện Hoa Sen: http://thuvienhoasen.org)

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.