Hôm nay,  

Quốc Tịch Và Quyền Công Dân

01/12/200800:00:00(Xem: 9812)

Quốc Tịch và Quyền Công Dân

Đỗ Văn Phúc
(Nhân Việt Cộng vừa sửa đổi Luật Quốc Tịch để ve vãn người Việt Tị Nạn.)
Mười lăm năm trước đây, khi bắt đầu có tin Hoa Kỳ chính thức lập bang giao với Việt Nam Cộng sản, vài anh em đã hoang mang  và đến hỏi ý kiến chúng tôi: “Liệu toà đại sứ Việt Cộng có gọi mình đến trình diện, làm khó dễ không"” Do nhận thức hạn chế về luật pháp, và bị ám ảnh bởi những năm tháng tù đày, áp bức của Cộng sản, các anh ấy đã không nhận thức rằng thẩm quyền tài phán (Jurisdiction) và  khả năng cưỡng chế (enforcement)  của Cộng sản Việt Nam chỉ có giới hạn trong đám nhân viên, du học sinh, công dân của họ đang làm việc, học hành, du lịch tại ngoại quốc. Còn chúng ta, những thường trú nhân, hay công dân Hoa Kỳ thì chẳng có gì dính líu với cái ngụy quyền Cộng sản cả. Và vì thế sự lo ngại nói trên là điều không nên đặt ra.
Hai mươi ba năm sau ngày chiếm trọn miền Nam, nhà cầm quyền Việt Cộng mới nhìn thấy nguồn tài nguyên phong phú của người Việt hải ngoại mà trước đó họ không ngừng nhục mạ bằng những từ ngữ xấu xa nhất. Năm 1998, Cộng sản ban hành Luật Quốc Tịch (Luật số 07/1998/QH10) nhằm ve vãn, cưỡng bức người Việt hải ngoại. Luật này coi tất cả những người Việt Nam thường trú, tạm trú, sinh sống lâu dài tại ngoại quốc đều là công dân Việt Nam. (Điều 2, sđd). CS Việt Nam không thừa nhận thực tế người Việt mang quốc tịch khác nếu không được nhà nước Việt Nam cho phép.
Nói ve vãn là vì trước đây, họ coi người Việt di tản, vượt biên là phản quốc, là tội phạm; nay họ mở đường để cho về làm ăn, đem đô la về giúp cho họ. Nói cưỡng bức là vì những người Việt tị nạn khi về Việt Nam, nếu có vấn đề về chính trị, họ sẽ quy chụp là công dân Việt Nam để hành tội, bắt bớ giam cầm.
Mới đây, Cộng sản Việt Nam lại sửa đổi luật Quốc Tịch vào kỳ họp tháng 5 năm 2008 thừa nhận tình trạng song tịch của người Việt hải ngoại.
Sự thay đổi này cũng gây ra nhiều tranh luận và thắc mắc trên các diễn đàn.
Chúng tôi xin mạn phép nêu ra vài định nghĩa và phân tích để làm sáng tỏ vấn đề.
Theo pháp lý, có hai phạm trù Quốc Tịch (Nationality) và Công Dân (Citizenship)
Quốc tịch là tình trạng của một cá nhân, tổ chức, công ty, tàu thuyền, phi cơ… dính líu đến một quốc gia về nguồn gốc, văn hóa, liên kết. (trong Đệ Nhị Thế Chiến, nhiều thương thuyền phe Đồng Minh mang quốc tịch các nước trung lập để không bị Đức đánh phá). Nói rõ ra là do sinh đẻ trên nước đó (quốc tịch đương nhiên) hoặc do việc xin gia nhập. Người (hay một entity nào đó) có quốc tịch phải chịu sự cưỡng chế (Jurisdiction), và đối lại, được sự bảo vệ của quốc gia mình mang quốc tịch. Trong thực tế lịch sử, có những nhóm, do sự liên kết bởi huyết thống, quá khứ lịch sử cũng được coi là chung quốc tịch, cho dù họ không cấu tạo thành một nhà nước nào. Ví dụ: dân Assyrians, Basques, Catalans, English, Welsh, Scots, British, Venetians, Palestinians, Tamils, Quebecers.
Cao hơn Quốc Tịch, là Quyền Công Dân. Công Dân được hưởng toàn bộ các đặc quyền về chính trị mà người có Quốc tịch chưa  chắc đã có.
Thí dụ: Những người tù vẫn mang quốc tịch Việt Nam, nhưng sau khi ra tù phải chịu một thời hạn quản chế mới được phục hồi quyền công dân.
Tình trạng song tịch là khi một người thủ đắc hai quốc tịch cùng một lúc. Nhiều quốc gia trên thế giới không chấp nhận tình trạng song tịch như Nhật Bàn, Đại Hàn, Trung Hoa, Thụy Điển, Đức… Trong Khi Anh, Pháp, Mỹ, Canada lạ mềm dẽo hơn, không bắt buộc người xin nhập tịch phải từ bỏ quốc tịch cũ của mình hoặc cho phép công dân mình nhận thêm quốc tịch của người phối ngẫu. Trường hợp con cái của công dân Hoa Kỳ đẻ ra trên nước khác cũng có thể mang thêm quốc tịch nước này.


Tuy nhiên tình trạng song tịch dẫn đến nhiều rắc rối về phương diện pháp lý do các hệ thống luật pháp và chế tài khác nhau. Do đó, thường làm hạn chế khả năng can thiệp bảo vệ cho công dân mình khi người này đến một nước khác mà họ cũng có quốc tịch (trường hợp các người Mỹ gốc Việt bị Cộng Sản bắt bớ tại Việt Nam)
Việc mang hai quốc tịch sẽ nảy sinh ra vấn đề nếu hai quốc gia có những xung đột tranh chấp về chính trị, quân sự hay quyền lợi kinh tế. Người ta sẽ hỏi:” Người song tịch sẽ trung thành với quốc gia nào, nếu có sự xung đột giữa hai nước"” Cánh hữu Mỹ đã phản đối tình trạng song tịch Mỹ-Mexico (luật Mexico thừa nhận tình trạng song tịch này), vì họ cho rằng Mexico sẽ ràng buộc các nghĩa vụ xã hội của họ lên công dân Hoa Kỳ. Về một cách nhìn chủ quan nào đó, thì người song tịch có thể mất đi một số quyền công dân như bầu cử, ứng cử, và thậm chí có thể mất quốc tịch Hoa Kỳ.
Như thế, chúng ta thấy rằng những người Việt tị nạn tại hải ngoại, về tâm lý tình cảm, không  thừa nhận mình là công dân của cái quái thai Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam; nhưng trên pháp lý, vẫn mang quốc tịch Việt Nam, dù chúng ta đối kháng chế độ Cộng Sản. Quốc tịch Việt Nam không giới hạn trong chế độ đương thời, mà là một tình cảm gắn bó với Tổ quốc Việt Nam, với dân tộc máu mủ đang sinh sống trên đó. Bởi tình cảm đó, mà chúng ta đã và đang hết lòng đấu tranh chống tập đoàn Cộng Sản để đem lại tự do, dân chủ cho quê hương.
Trong Khoản 1, điều 4, chương 1 của Luật Quốc Tịch ghi: Người có Quốc tịch Việt Nam là công dân nước CHXHCNVN; khoản tiếp theo thêm rằng người công dân phải thi hành các nghĩa vụ đối với nhà nước và xã hội. Các nghĩa vụ này chắc chắn bao gồm việc đi lính và đóng thuế cho nhà nước Việt Cộng. Nhưng có thể không có quyền ứng cử, bầu cử vì ngay người công dân trong nước vẫn không được ứng cử dù hiến pháp Việt Cộng có ghi đầy đủ quyền này. Có quốc tịch Việt Nam, nhưng chúng ta có thể trả lời Cộng Sản rằng chúng ta không là công dân của họ. Vì Quốc tịch dính líu đến Đất Nước (là tổ quốc); trong khi công dân dính líu đến Nhà nước (định chế chính trị). Người Mỹ gốc Do Thái trở về nước đầu quân đánh Ả Rập do lòng yêu nước; trong khi người Mỹ gốc Nhật thành lập đơn vị riêng trong quân đội Mỹ đánh lại Nhật tại mặt trận Thái Bình Dương.
 Người Việt Tị nạn chống Cộng sản chẳng bao giờ đóng góp cho kẻ thù, cũng như để cho con cháu mình khoác lên bộ quân phục của một chế độ từng ngược dãi, mưu giết mình; và vẫn còn là chế độ đàn áp dân tộc.
Như đã nói ở phần đầu, ngoài lãnh thổ Việt Nam, Cộng sản không có thẩm quyền tài phán (jurisdiction) và khả năng cưỡng chế (Enforcement) đối với người Việt hải ngoại.
Do đó, chúng ta an tâm chẳng nên lo lắng rằng một ngày nào đó, bọn Cộng Sản gửi giấy báo “nộp thuế” hay “nghĩa vụ quân sự” đến nhà bắt chúng ta thi hành. Trường hợp quý vị cần về Việt Nam, thì nên khẳng định mình là công dân Hoa Kỳ hay Úc hay Pháp… để được sự che chở của các nước này trong trường hợp vị bọn cầm quyền quấy nhiễu.
Còn đối với quý vị vì tiền, vì danh… mà mò về Việt Nam kiếm ăn, thì  tác giả xin miễn bàn đến. Lợi nhuận nào cũng phải trả bằng một giá cả. Mà trong xã hội Cộng sản, cái giá này, coi chừng, sẽ rất bi thảm.
Đỗ Văn Phúc

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong bối cảnh thế giới đang trải qua những biến động nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và công nghệ, toàn cầu hoá – vốn từng được xem là động lực chính thúc đẩy cho tăng trưởng và thịnh vượng – đang đứng trước những thách thức chưa từng có. Tiến trình công nghiệp hoá và toàn cầu hoá đã đem lại nhiều thành tựu vượt bậc trong suốt thời gian dài qua, từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI, đặc biệt là thông qua sự chuyên môn hoá, tự do thương mại và tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên, các cuộc khủng hoảng tài chính, đại dịch toàn cầu, chiến tranh và cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc đã khiến mô hình toàn cầu hoá truyền thống bộc lộ nhiều tình trạng bất ổn...
Nhiều thế hệ sống ở Sài Gòn những năm của thập niên 80-90, khi con gà trống của Thương Xá Tax chưa bị bức tử, khi những hàng cây cổ thụ trên đường Tôn Đức Thắng vẫn là nét thơ mộng của Sài Gòn, có lẽ đều quen thuộc với câu “Chương Trình Truyền Hình Đến Đây Là Hết…” Nó thường xuất hiện vào cuối các chương trình tivi tối, khi chưa phát sóng 24/24. Thời đó, mỗi ngày truyền hình chỉ phát sóng trong một số khung giờ nhất định (thường từ chiều đến khuya) nên hầu như ai cũng có tâm lý chờ đợi đến giờ ngồi trước màn ảnh nhỏ, theo dõi vài giờ giải trí. Đó cũng là chút thời gian quên đi một ngày cơ cực, bán mồ hôi cho một bữa cơm độn bo bo thời bao cấp. Nhắc nhớ chút chuyện xưa, để nói chuyện nay, đang diễn ra ở một đất nước văn minh hàng đầu, từng là niềm mơ ước của biết bao quốc gia về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận.
Trên mạng gần đây lan truyền một bức tranh chuỗi tiến hóa ngược nhại kiểu Banksy - vẽ hình ảnh tiến hóa quen thuộc từ khỉ tiến tới người, nhưng đến giữa chặng đường, một gương mặt ai cũng nhận ra quay lưng đi ngược lại về phía khỉ. Cái dáng ngoảnh đầu ấy khiến tôi chạnh lòng nghĩ đến hình ảnh nước Mỹ hôm nay. Giữa thế kỷ XXI, lẽ ra phải tiếp tục đi tới, nhưng thay vì mở rộng tự do học thuật – ngọn nguồn của sáng tạo – chúng ta lại thấy những dấu hiệu nước Mỹ thoái lui theo một quỹ đạo lạ lùng: thử nghiệm một kiểu “tiến hóa ngược”.
Từ khi Tối Cao Pháp Viện lật đổ Roe v. Wade, chúng ta đều biết câu chuyện không dừng lại ở đó. “Để tiểu bang tự quyết” chỉ là cái cớ. Và Texas, tiểu bang bảo thủ dẫn đầu, vừa chứng minh điều đó bằng một luật mới: trao cho bất kỳ ai quyền săn lùng và kiện những người dính dáng tới thuốc phá thai. Texas vốn đã có một trong những lệnh cấm khắc nghiệt nhất: phá thai bị cấm hoàn toàn, trừ vài ca y tế khẩn cấp. Không ngoại lệ cho thai dị tật chết non. Không ngoại lệ cho hiếp dâm. Không ngoại lệ cho loạn luân. Thế nên, nhiều phụ nữ Texas chỉ còn con đường tìm đến thuốc phá thai qua mạng, thường từ những nhà cung cấp ở ngoài tiểu bang. Luật mới nhắm thẳng vào cánh cửa mong manh ấy.
Suốt 250 năm, người Mỹ đồng ý rằng cai trị bởi một người duy nhất là sai lầm, rằng chính quyền liên bang vốn cồng kềnh, kém hiệu quả. Lẽ ra hai điều ấy đủ để ngăn một cá nhân cai trị bằng mệnh lệnh từ Bạch Ốc. Nhưng Trump đang làm đúng điều đó: đưa quân vào thành phố, áp thuế quan, can thiệp vào ngân hàng trung ương, chen vào quyền sở hữu công ty, gieo nỗi sợ để buộc dân chúng cúi đầu. Quyền lực bao trùm, nhưng không được lòng dân. Tỉ lệ chấp thuận của ông âm 14 điểm, chỉ nhỉnh hơn chút so với Joe Biden sau cuộc tranh luận thảm hại năm ngoái. Khi ấy chẳng ai lo ông Biden “quá mạnh”. Vậy tại sao Trump, dù bị đa số phản đối, vẫn dễ dàng thắng thế?
Có bao giờ bạn nói một điều rõ ràng như ban ngày, rồi nghe người khác nhắc lại với nghĩa hoàn toàn khác? Bạn viết xuống một hàng chữ, tin rằng ý mình còn nguyên, thế mà khi quay lại, nó biến thành điều bạn chưa từng nghĩ đến – kiểu như soi gương mà thấy bóng mình méo mó, không phải bị hiểu lầm, mà bị người ta cố ý dựng chuyện. Chữ nghĩa, rơi vào tay kẻ cố ý xuyên tạc, chẳng khác gì tấm gương vỡ. Mỗi mảnh gương phản chiếu một phần, nhưng người ta vẫn đem mảnh vỡ đó làm bằng chứng cho toàn bộ bức tranh. Một câu, một đoạn, một khẩu hiệu – xé khỏi bối cảnh trở nên lệch lạc – hóa thành thứ vũ khí đâm ngược lại chính ý nghĩa ban đầu. Câu chuyện của đạo diễn Trấn Thành gần đây là một minh họa. Anh chỉ viết đôi dòng thương tiếc chia buồn với sự ra đi của nghệ sĩ đàn bầu Phạm Đức Thành. Vậy thôi. Thế mà lập tức bị chụp mũ, bêu riếu, bị gọi “3 que,” “khát nước,” “Cali con.” Người ta diễn giải đủ kiểu, vẽ ra đủ cáo buộc: từ tội mê văn hóa Việt Nam Cộng Hòa đến tội phản quốc.
Sau thất bại trước đối thủ đảng Dân Chủ Joe Biden trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020, nội các “gia đình trị” của Donald Trump gần như biến mất khỏi chính trường. Các đồng minh không thể có cùng tiếng nói với Trump, nhất là sau vụ bạo loạn Quốc Hội Jan 06. Duy nhất một người vẫn một lòng trung thành không bỏ rơi Trump, đó chính là Stephen Miller. Nhiệm kỳ hai của Trump, người được cho là có quyền lực hơn trong vòng tròn thân cận của Trump, hơn cả JD Vance, chẳng ai khác hơn chính là Stephen Miller. Để tạo ra những ảnh hưởng chính trong chính quyền Trump hôm nay, Miller đã có một đường dài chuẩn bị, khôn ngoan và nhẫn nại.
Đầu tháng 8 năm 2025, Tổng thống Donald Trump đã ký một mệnh lệnh đặc biệt, chỉ đạo các cơ quan hữu trách lập kế hoạch đưa quân đội Hoa Kỳ đi trấn áp các tổ chức tội phạm ở Mỹ Latinh. Khoảng hai tuần sau, mệnh lệnh đã thành hiện thực. Ba khu trục hạm có gắn phi đạn viễn khiển (guided-missile destroyers) của Hoa Kỳ đã được khai triển tới vùng biển Venezuela, đảm trách việc chặn giữ các chuyến hàng ma túy.
Một góc khuôn viên của Đồi Capitol sáng Thứ Tư là những câu chuyện tưởng đã bị chôn vùi, nay được kể ra trong sự run rẩy, xúc động và cả nước mắt. Trước hàng chục ống kính truyền thông chiếu trực tiếp trên toàn quốc, khoảng mười người phụ nữ lần lượt kể ra câu chuyện của chính mình – nạn nhân của Jeffrey Epstein, tỷ phú tội phạm tình dục và buôn bán mại dâm trẻ vị thành niên. Ngày đó, những phụ nữ này chỉ vừa 16, 18 tuổi, nhỏ nhất là Marina Lacerda, 14 tuổi.
Ở đời, chẳng có ngai vàng nào là miễn phí. Muốn hỏi cưới công chúa thì phải có sính lễ. Làm gì có chuyện đi tay không mà cuỗm được gái đẹp — trừ trường hợp dùng quyền lực bẩn thỉu cưỡng hiếp gái tơ (nghe quen quen). Muốn làm đàng anh đàng chị không thể vừa keo kiệt vừa đòi được người ta kính nể. Quy luật xưa nay không đổi ăn khế thì phải trả vàng. Ngai vàng toàn cầu cũng vậy -- không chỉ làm bằng vàng, mà còn bằng chi phí, lời hứa, và trên hết, là sự tín nhiệm.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.