Hôm nay,  

Mậu Dịch Tự Do Á Châu

24/01/200700:00:00(Xem: 10246)

Mậu Dịch Tự Do Á Châu

...tự do ngoại thương và nói chung, tự do kinh tế, là điều có lợi về dài và cho đa số...

Trong Thượng đỉnh vừa qua tại Philippines của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á ASEAN, lãnh đạo các nước Á châu đã thảo luận về một Hiệp định Thương mại Tự do giữa 10 nước ASEAN và sáu nước Á châu khác hầu giải phóng luồng trao đổi hàng hoá của cả khu vực, trong đó có Việt Nam. Với việc Việt Nam vừa gia nhập Tổ chức WTO, Hiệp định Thương mại ấy sẽ có ý nghĩa gì" Mà vì sao lại phải có một khối tự do mậu dịch riêng cho Á châu" Diễn đàn Kinh tế đài RFA sẽ tìm hiểu vấn đề ấy qua phần trao đổi sau đây của Việt Long với kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa.

Hỏi: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, trong ba ngày từ 13 đến 15 vừa rồi, tại Thượng đỉnh ở Philippines của ASEAN là Hiệp hội 10 Quốc gia Đông Nam Á, lãnh đạo các nước châu Á đã thảo luận về một Hiệp định Thương mại Tự do giữa 10 nước ASEAN với sáu nước khác của khu vực là Nhật Bản, Trung Quốc, Nam Hàn, Ấn Độ, Australia và New Zealand. Xin đề nghị là kỳ này, ta sẽ cùng trao đổi về ý nghĩa và hậu quả của hiệp định ấy.

-- Thưa vâng, 10 nước trong ASEAN gồm có Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Brunei, Cambốt, Lào và Miến Điện. Thêm sáu quốc gia vừa kể tên thì ta sẽ có 16 nước có gần phân nửa dân số thế giới và hàng năm cùng sản xuất ra khoảng 9.000 tỷ Mỹ kim, nghĩa là một khối kinh tế rất mạnh có thể giữ vị trí chân kiềng thứ ba so với Hoa Kỳ và Liên hiệp Âu châu. Tuy nhiên, như ông có thể nhận thấy, trong nhóm 16 nước ấy lại không có Đài Loan mà người dân tại đấy gọi là Trung Hoa Dân Quốc và bị Bắc Kinh phản đối.

Đài Loan chỉ có 23 triệu dân, nhưng có sản lượng hơn 630 tỷ Mỹ kim, hơn gấp 10 Việt Nam và là nền kinh tế đứng hàng thứ 16 thế giới, với lợi tức đồng niên một đầu người là gần 28 ngàn Mỹ kim, gần gấp 10 Việt Nam. Lý do vắng mặt là vì xứ này không được Bắc Kinh coi là một quốc gia, mà chỉ là một nền kinh tế. Các nước khác đành chịu theo. Vì vậy, câu trả lời đầu tiên thuộc về bối cảnh, đây là một tính toán chính trị hơn là kinh tế!

Hỏi: Đầu đuôi  ra sao mà lại có sáng kiến lập ra một khu vực tự do mậu dịch Đông Á"

-- Nếu nói cho gọn và hơi phũ thì có lẽ động lực đầu tiên là “mặc cảm Á châu”. Các nước ASEAN là một câu lạc bộ về áo cơm, vì thấy lợi ích của tự do kinh tế nên sau khi tự ý cải cách trong từng nước, họ muốn hội nhập với nhau thành một khu vực tự do kinh tế rộng lớn hơn. Về sau thì vừa được khuyên lại cũng vừa muốn mở rộng phạm vi hội nhập ra ngoài khuôn khổ 10 hội viên. Vì vậy, từ sáu năm nay, ASEAN vẫn thảo luận thêm với ba nước Đông Á ở bên ngoài là Nhật Bản, Trung Quốc và Nam Hàn, gọi đó là ASEAN+3. Từ đó mới có những đề nghị mở rộng dần dần thành ASEAN+4, rồi +6. Cũng có thời, các nước còn muốn tiến đến việc liên hiệp hay thống nhất về tiền tệ như Âu châu nữa.

Mục tiêu chính là để lập ra một khối kinh tế hội nhập bên trong và có khả năng làm sức đối trọng với hai khối kinh tế lớn kia là Hoa Kỳ và Âu châu.

Hỏi: Nhưng vì sao ông lại nói ngay từ đầu là “mặc cảm Á châu”"

-- Đầu tiên, ngay khái niệm hay phạm trù Á châu đã có gì đó không ổn về nhiều mặt. Các quốc gia trong khu vực có quá nhiều dị biệt về lịch sử, văn hoá và tôn giáo, khác hẳn các nước Âu châu vốn cùng chia sẻ một di sản văn hoá là Thiên chúa giáo và, tương đối, biên giới vẫn còn liền lạc với nhau thành một khối. Thực ra, sau khi từng bị Âu châu tấn công và khai thác như thuộc địa, nhiều nước Á châu bị sức hút rất mạnh của các cường quốc tiếp cận và có lập trường khác biệt trong từng loại vấn đề của thế giới.

Bên trong, hai cường quốc Đông Á là Trung Quốc và Nhật Bản cũng có khác biệt về hệ thống chính trị, lập trường và ảnh hưởng với các nước khác, chưa nói đến hai quốc gia ở vùng cực Nam là Australia và New Zealand là những mảnh vụn do Âu châu để lại tại Á châu, rất dân chủ, triệt để theo đuổi đường lối kinh tế tự do nhưng khác hẳn với Ấn Độ hay Trung Quốc. Vậy mà các nước trong khu vực rộng lớn và đa diện này lại muốn hội nhập làm một để lập ra một khối kinh tế đối trọng với Hoa Kỳ và Liên hiệp Âu châu thì tôi thiển nghĩ rằng đây là một ước mơ dễ hiểu về lý thuyết mà khó thành về thực tế.

Hỏi: Trở lại mục tiêu nhỏ hơn là hợp tác kinh tế với nhau, các nước Á châu này đã thực hiện được những gì"

-- Trước tiên là các nước trong ASEAN, 40 năm sau khi thành lập, đã xây dựng được một khuôn khổ đối thoại và hợp tác đáng kể, nhưng khuôn khổ đó vẫn chỉ là một câu lạc bộ áo cơm mà thôi, chưa là một định chế có sức mạnh cưỡng hành tương tự như Thị trường chung Âu châu hay Liên hiệp Âu châu. Thứ nữa là ngay trong khuôn khổ 10 quốc gia này, người ta thấy là quá nhiều khác biệt về chính trị cũng cản trở những nỗ lực hợp tác hay hội nhập rộng lớn hơn, điển hình là nạn độc tài tại Miến Điện mà chính quyền sở tại tự xưng là Myanmar, hay thiếu dân chủ tại Việt Nam. Sau cùng, 10 nước ASEAN còn chưa có Hiệp định Tự do Thương mại với nhau. Bước đầu vẫn chưa có thì làm sao mở rộng"

Hỏi: Bây giờ, xin đề nghị ông trình bày chuyện mở rộng ấy, trước khi thẩm định tính chất khả thi của nó.

-- Chúng ta đang chứng kiến sự nở rộ của những sáng kiến hợp tác giữa các nước, khởi đi là hợp tác về ngoại thương và đầu tư với nhau rồi mở rộng ra việc giải tỏa mọi cản trở để tiến tới tự do ngoại thương với nhau. Đó là về nội dung. Về địa bàn thì từ 1999 đến nay, 10 nước ASEAN đã lập ra cơ chế thảo luận với ba nước Đông Á như ta đã nói là Nhật Bản, Trung Quốc và Nam Hàn. Sau đó, họ muốn mời thêm ba nước khác là Ấn Độ, New Zealand và Australia, như Nhật Bản đề nghị, thành ASEAN+6 tại Hội nghị Đông Á ở Kualar Lumpur của Malaysia vào năm 2005. Tuy nhiên, đề nghị ấy bị Bắc Kinh bác bỏ vì họ không muốn mời Ấn Độ, New Zealand và Australia vào trong nhóm. Tuần qua, họ mới hâm nóng lại hồ sơ đó tại Thượng đỉnh Cebu của Philippines.

Hỏi: Có một câu hỏi gây thắc mắc cho nhiều người, nhất là người Việt Nam, đó là vì sao 150 quốc gia đã có cơ chế thương mại tự do với nhau là tổ chức Thương mại Thế giới WTO, mà Việt Nam là thành viên mới nhất, lại còn muốn lập thêm khối này khối kia và đề nghị thảo luận các Hiệp định Thương mại với nhau trong từng khối"

-- Trên diễn đàn này, ta đã nhiều lần đề cập tới vấn đề ấy. Đó là cơ chế thống nhất WTO thực ra gây quá nhiều tranh luận hay kiện tụng và lâm vào bế tắc nên các nước mới đang muốn tìm ra giải pháp song phương hay đa phương, giữa từng nhóm, từng khu vực với nhau. Đây là một trào lưu mới và sẽ càng gia tăng khi vòng đàm phán Doha của WTO bị bế tắc năm ngoái. Việt Nam cần chú ý đến chuyện này vì luật chơi sẽ còn nhiều thay đổi và cái gọi là kinh tế nhất thể hóa thực ra đang bị phân hóa thành từng khối, từng nhóm.

Hỏi: Nhưng vì sao lại có những trở ngại như vậy giữa các nước đã cơ bản đồng ý với nhau về giá trị của kinh tế thị trường và mậu dịch tự do"

-- Vì kinh tế không là tất cả và trong áp dụng vẫn còn dị biệt. Tôi xin đơn cử năm thí dụ của hai nhóm. Nhóm thứ nhất là hai cường quốc Đông Á là Nhật Bản và Trung Quốc, và một cường quốc Nam Á là Ấn Độ. Ba xứ này vẫn còn nhiều chủ trương hạn chế mậu dịch để bảo vệ một số ngành họ cho là chiến lược vì lý do chính trị nội bộ. Nhóm thứ hai là hai quốc gia chủ yếu là da trắng, đó là Australia và New Zealand, lại triệt để cải cách để theo đuổi tự do mậu dịch, nhất là New Zealand, một nước nhỏ mà đã trả một cái giá rất đắt để cải cách kinh tế theo xu hướng tự do kể từ 1984 đến nay. Họ khó chấp nhận được một Hiệp định Thương mại gọi là tự do mà có quá nhiều đặc miễn như ba nước kia đề nghị.

Đã thế, bên trong nhóm thứ nhất, Trung Quốc và Nhật Bản đều muốn tranh thủ hậu thuẫn của các nước khác để cạnh tranh với nhau về thế lực ngoại giao. Riêng Trung Quốc thì còn muốn gạt Ấn Độ ra ngoài vì cũng ngại sức nặng nhiều mặt của xứ này. Và từ năm kia, quan hệ ngoại thương giữa Ấn Độ và ASEAN coi như bị đông lạnh vì đàm phán bế tắc sau khi Ấn Độ muốn mở cửa khu vực công nghệ tín học mà họ có ưu thế nhưng vẫn đòi khép các khu vực khác để bảo vệ công việc làm cho một dân số một tỷ người, với 60% vẫn còn phải sống về nông nghiệp. Cho nên xứ nào cũng đồng ý là sẽ thảo luận về một Hiệp định Tự do Thương mại, nhưng nội dung bên trong sẽ còn lắm khác biệt.

Hỏi: Thế còn lập trường của các nước bên ngoài như Hoa Kỳ thì sao"

-- Khi các nước Đông Á tôi xin tạm gọi là ngại Mỹ, như Trung Quốc chẳng hạn, đề nghị lập ra khu vực tự do kinh tế Á châu, họ muốn là trong phạm trù Á châu ấy không có Hoa Kỳ. Lý do chính là để giữ thế mạnh trong vỉệc thương thuyết với các nước Á châu khác mà khỏi có sự tham dự của Mỹ. Chỉ đối phó với sức nặng kinh tế Nhật Bản thôi cũng đã đủ mệt. Ngược lại, Hoa Kỳ đề nghị một khu vực mậu dịch tự do Thái bình dương, bao gồm cả các nước Bắc Mỹ và Trung Mỹ hay Nam Mỹ với các nước tại miền Tây của Thái bình dương, là các nước Đông Á. Trong khi ấy, Hoa Kỳ cũng đang thương thảo riêng các hiệp định thương mại song phương với từng nước trong khối Đông Á, với những đổi chác tay đôi về nhiều điều kiện ngoài thương mại.

Nhìn như vậy, tương lai trước mắt và lâu dài sẽ là hàng loạt thương thuyết song phương hay đa phương, giữa từng nhóm, trong khi ấy, như ta đã nói từ mấy kỳ trước, phản ứng bảo hộ mậu dịch và chống toàn cầu hoá đã gia tăng mạnh mẽ tại các nước công nghiệp.

Hỏi: Quả nhiên như vậy, sau khi Diễn đàn Kinh tế đề cập vấn đề này trong các chương trình ngày 19 tháng 12 rồi ngày 16 tuần trước thì tuần báo kinh tế nổi tiếng là tờ The Economist đã có một loạt chuyên đề về lẽ được thua của toàn cầu hóa trong số ra ngày 20 vừa qua. Vậy, theo dự kiến của ông thì tương lai rồi sẽ ra sao"

-- Khó ai biết trước được mọi sự nhưng ngay trước mắt sẽ là rất nhiều tranh cãi và thương thuyết để san bằng dị biệt giữa từng nhóm quốc gia với nhau, trước khi tiến tới một thế hợp tác hay hội nhập rộng lớn hơn. Kết luận chung thì đây là một thất bại lớn của WTO, là điều ta cần nhấn mạnh vì Việt Nam vừa gia nhập tổ chức này với rất nhiều kỳ vọng.

Hỏi: Câu hỏi cuối, trong hoàn cảnh ấy, Việt Nam nên làm những gì, tự chuẩn bị những gì"

-- Tôi thiển nghĩ rằng tự do ngoại thương và nói chung, tự do kinh tế, là điều có lợi về dài và cho đa số. Càng sớm giải tỏa những cản trở thì càng có lợi, như chúng ta đã có lần lấy một thí dụ là tự do ngoại thương cũng tựa như hạ tầng cầu đường yểm trợ sinh hoạt kinh tế vậy. Nếu đã thế thì chẳng phải vì xứ khác còn duy trì những hạn chế mậu dịch mà mình cũng làm như họ, như khi thấy xứ khác phá hủy cầu đường của họ thì mình về nhà phá cầu của mình. Từ nguyên tắc ấy, Việt Nam vẫn nên thực hiện những cam kết đã có trong khuôn khổ WTO, đồng thời mở rộng việc thông tin và giáo dục để người dân biết được thế giới bên ngoài và đoán trước được những trở ngại sẽ gặp. Điều ấy rất quan trọng vì sau mấy chục năm ngăn sông cấm chợ mình vừa tiến ra ngoài thì lại gặp phản ứng ngược từ môi trường quốc tế nay bị manh mún làm nhiều khối và có tinh thần chống tự do mậu dịch, chống toàn cầu hoá.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Năm xưa, khi Benjamin Franklin rời khỏi Hội nghị Lập hiến năm 1787, một người phụ nữ hỏi ông: “Ngài Franklin, chúng ta có được chính thể gì, một nền quân chủ hay một nền cộng hòa?” Ông đáp: “Một nền cộng hòa, nếu các người còn giữ được nó.” Benjamin Franklin muốn nói, một nền cộng hòa, tức chính quyền của nhân dân, dựa trên luật pháp và trách nhiệm của người dân. Nền cộng hoà không tự bền vững, nó chỉ tồn tại nếu người dân có đủ phẩm hạnh, lý trí. Dân chủ không phải một thành quả, mà là thử thách liên tục. Câu nói ngắn gọn, đanh thép năm xưa của Franklin nay linh nghiệm, dưới thời Donald Trump.
Sáng nay, một post trên mạng xã hội của một người bạn làm tôi khựng lại: “Nếu không thích nước Mỹ, thì cuốn gói cút đi.” Câu đó khiến tôi nhớ về một buổi chiều hơn mười năm trước. Hôm ấy, nhóm bạn cũ ngồi quây quần, câu chuyện xoay về ký ức: Sài Gòn mất. Cha bị bắt. Mẹ ra tù. Chị em bị đuổi học, đuổi nhà. Và những chuyến tàu vượt biển không biết sống chết ra sao. Giữa lúc không khí chùng xuống, một người bạn mới quen buông giọng tỉnh bơ: “Các anh chị ra đi là vì không yêu tổ quốc. Không ai ép buộc dí súng bắt các anh chị xuống tàu cả.” Cả phòng sững sờ. Ở đây toàn người miền Nam, chỉ có chị ta là “ngoài ấy.” Vậy mà chị không hề nao núng. Ai đó nói chị “gan dạ.” Có người chua chát: “Hèn gì miền Nam mình thua.”
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
Hiểu một cách đơn giản, văn hoá là một khái niệm tổng quát để chỉ sự chung sống của tất cả mọi người trong cùng xã hội, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo và luật pháp. Do đó, luật pháp là một thành tố trong toàn bộ các hoạt động văn hoá và có ảnh hưởng đến tiến trình phát triển xã hội, một vấn đề hiển nhiên...
Bất kỳ là ai, trẻ cũng như già, nữ cũng như nam, thật là tò mò, nếu chúng ta có thể biết được tương lai gần hoặc xa của mình, của người khác. Biết được tương lai là chuyện thú vị, hoặc căng thẳng, hoặc sôi nổi, hoặc sợ hãi. Ví dụ như bạn tiên đoán được ba tháng nữa sẽ gặp tai nạn hoặc cuối năm nay sẽ bị vợ ly dị. Nhưng có thể nào tiên đoán như vậy không? Làm gì có, chỉ là chuyện giả tưởng, chuyện phim ảnh và tiểu thuyết. Chuyện mấy bà phù thủy nhìn vào thau nước hoặc quả bóng kính trong thấy được chuyện mai sau, việc mấy ông thầy bói bấm tay nhâm độn, lật bài bói toán, v… v… chỉ thỏa mãn giấc mơ và tưởng tượng. Trong thực tế, chuyện đang xảy ra còn chưa giải quyết xong, nói chi chuyện ngày mai. Không đúng, nếu biết chuyện ngày mai thì chuyện hôm nay vô cùng dễ giải quyết. Ví dụ, “nếu biết rằng em sẽ lấy chồng, anh về lấy vợ thế là xong. Vợ anh không đẹp bằng em lắm, nhưng lấy cho anh đỡ lạnh lòng.” (Thơ vô danh). Thay vì cứ đeo đuổi hai ba năm sau, kéo dài buồn bã, đau khổ, để rồi “Lòn


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.