Hôm nay,  

Xâu Xé Biển Đông

10/01/200800:00:00(Xem: 9514)

Ngày 2 - 12 - 2007, Quốc vụ viện Trung quốc tuyên bố, lấy đảo Hoàng  Sa và Trường Sa, thành lập chung vào huyện Tam Sa, thuộc đảo Hải Nam. Người Việt trong cũng như ngoài nước đều bức xúc khi nghe tin này. Người viết tham khảo những sách báo về Hoàng Sa và Trường Sa (có nhiều sách báo đã tham khảo cho bài viết này, mong mỏi những sách báo được tham khảo  cảm thông), để tìm hiểu chi tiết về biển Đông. Sau đây, một vài định nghĩa về luật biển, để bổ túc thêm cho bài viết này:

- Lãnh hải (Territorial Waters): Vùng biển ven bờ biển, thuộc chủ quyền của các quốc gia miền duyên hải, được Quốc tế quy định không quá 12 hải lý chiều rộng.

- Vùng đặc quyền kinh tế (Exclusive Economic Zone): là một khu vực đặc biệt, chỉ dành riêng cho quốc gia được hưởng quyền lợi kinh tế nơi ấy, mà người khác không được. Vùng đặc quyền kinh tế được quốc tế quy định 200 hải lý.

- Đường cơ sở (Baselines): Đường quy định dọc theo bờ biển các nước, từ đó tính chiều rộng lãnh hải, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế.

- Hải lý (Nautical Mile): Đơn vị đo chiều dài trên mặt biển, 1 Hải lý bằng 1,852km.

I - Vị Trí của Hoàng và Sa Trường Sa

Đảo Hoàng Sa có khoảng trên 100 đảo, trong đó có 2 nhóm đảo quan trọng.

1- Nhóm Nguyệt Thiềm (Crescent) các đảo quan trọng của nhóm này là:

a – Hoàng Sa (Pattel) có diện tích 0.56 km2 nơi đây có hải đăng và khi xưa có 1 Trung đội của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đóng ở đó.

b - Đảo Cam Tuyền (Robert) diện tích 0.32km2  là đảo san hô, có cây cối thấp.

c - Đảo Duy Mộng (Drummond) diện tích 0.41km2 . Trước năm 1963 có Thủy quân Lục chiến của QLVNCH trú đóng ở đây.....

 2- Nhóm đảo Tuyên Đức (Amphitrite), các đảo quan trọng của nhóm này là:

a - Đảo Phú Lâm (Woody Island) có diện tích 1.32km2

b - Và nhiều đảo khác, nhỏ hơn như: Đảo Cây, Đảo Nam, Đảo Bắc....

Các đảo Hoàng Sa ở vào vĩ tuyến 17005’ - 15045’Bắc, ở phía đông của tỉnh: Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi.

Đảo Trường Sa có khoảng trên 500 đảo, nằm rải rác từ Việt Nam đến Phi Luật Tân, trong đó có 9 đảo tương đối lớn. Đảo lớn nhất là Trường Sa (Spartley) có diện tích 0.175km2, ở đảo này có nhiều chim trú ngụ, có nhiều cây, có những cây dừa có trái. Trong số trên 500 đảo ấy, có vô số cồn, đá, bãi và bãi ngầm. Đảo Trường Sa ở vào vĩ tuyến 17000’ – 15000’ Bắc, dọc theo bờ biển từ tỉnh Khánh Hoà đến Cà Mau.

 II - Công ước Quốc tế về Luật Biển (Law of Sea Convention)

Để minh định rõ ràng cho những nước có vùng duyên hải. Vào năm 1982, có 119 quốc gia hội họp, trong đó có Trung quốc và Việt Nam, đã đồng ý ký kết về Luật Biển. Luật Biển quy định, các quốc gia duyên hải, vùng đặc quyền kinh tế, chỉ được hưởng quy chế 200 hải lý.

Sau khi Đại diện của Trung quốc, ký xong Công ước Quốc tế về luật biển, chính quyền Trung quốc, xem xét kỹ càng lại về đảo Hoàng Sa và Trường Sa, thì thấy rằng: Đảo Hoàng Sa cách bờ biển của Trung quốc 270 hải lý, cách bờ biển Việt Nam 155 hải lý. Đảo Trường Sa cách bờ biển của Trung quốc 750 hải lý, cách bờ biển Việt Nam 190 hải lý.

Chính quyền Trung quốc mới bật ngửa, giật mình. Nhưng bản chất tham lam đất đai, biển cả, xâm chiếm các nước láng giềng, đã có từ trong máu ông cha của họ di truyền cho cháu chắt. Trung quốc đã nhiều lần xâm lăng Việt Nam (Nhà Hán bị Trưng Vương đánh đuổi, nhà Tống bị Lý Thường Kiệt trừng trị, nhà Minh bị Lê Lợi bình định...). Nước Cao Ly (Korea) bị nhà Đường đem quân xâm lăng (Tiết Nhơn Quí chinh đông), hay bây giờ là Tây Tạng (Tibet) bị khó khăn bởi Trung cộng.

Chính quyền Trung, vội vã bám víu vào lá thư của ông Phạm Văn Đồng là Thủ tướng của miền Bắc Việt Nam, ký gởi cho Thủ tướng Chu Ân Lai, của nước Cộng sản anh em thâm hiểm là Trung quốc, vào ngày 14 tháng 9 năm 1958, ông Đồng đã vô liêm sĩ và thiếu tỉnh táo xác nhận: Đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đảo của Trung quốc. Nhưng chính quyền Trung quốc còn ngại ngần, nghĩ rằng: Vào năm 1958 đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa (chính quyền Miền Nam Việt Nam), nên ông Đồng kể cả ông Hồ Chí Minh là Chủ tịch nước lúc bấy giờ có ký, cũng không đủ yếu tố pháp lý. Cộng sản Hà Nội còn dâng cho Trung quốc khoảng 700km2 lãnh thổ ngày 30 - 12- 1999, khoảng 10.000km2 lãnh hải ngày 25 -12 - 2000, đều thiếu yếu tố pháp lý. Vì mọi sự cắt nhượng đất đai hay lãnh hải của quốc gia, phải được sự đồng ý của nhân dân hoặc lưỡng viện Quốc hội là cơ quan Lập pháp và đại diện cho dân. Chính quyền Trung quốc bị hoang mang, nên lật đật tập hợp khỏang 400 người: Học giả, sử gia, nhà văn, nhà báo...

Để dàn dựng viết lại biển lịch sử (Historic waters). Họ kéo tổ tiên của họ từ đời Hán Vũ Đế, bịa chuyện xa xưa đã đưa 100 ngàn Hải quân Trung quốc đi tuần thám, đã khám phá ra đảo Hải Nam, rồi nào là đời nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh, nhà Thanh đã thăm dò, du ngoạn biển Đông. Rồi ngày 14 - 3 - 1988 Hải quân Trung quốc đánh chiếm Trường Sa, 74 chiến sĩ của Quân đội Nhân dân bị tử thương. Ngày 8 -1 - 2005 Hải quânTrung quốc, bắn vào tàu đánh cá ngư dân Thanh Hóa giết chết 9 người, bắt sống 8 người. Ngày 10 - 8 - 2007 Trung quốc mở tour du lịch ở hai đảo Hoàng Sa và Trường Sa....tùm lum tà la, nhập nhằng để cưỡng đoạt Hoàng Sa và Trường Sa. Và đã áp đảo, phỉnh phờ chính quyền Cộng sản Hà Nội ký kết vùng đánh cá ( Fishery zone) chung, để đục nước béo cò.

Biển lịch sử Tàu có cái gọi là Lưỡi rồng Trung quốc, tới sát bờ biển Việt Nam, cách Quảng Ngãi 40 hải lý. Cách Natuna của Nam Dương 30 hải lý. Cách Palauvan của Phi Luật Tân 25 hải lý. Với sự tráo trở này, nó chiếm trọn 3 túi dầu khí: Tứ Chính (Vanguard) của Việt Nam, Natuna của Nam Dương và Red Bank của Phi Luật Tân

 III - Hoàng Sa và Trường Sa trong quá khứ

 - Lê Quý Đôn viết trong “Phủ biên tạp lục” vào năm 1776, Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Đại Việt từ thời nhà Lê, người Việt đã đến định cư tại Phủ Tư Nghĩa thuộc tỉnh Quảng Ngãi.

- Người Pháp ông Chaigneau (1769 - 1825) viết cuốn “Memoire sur la Cochinchina” và Đức giám mục Taberd viết cuốn “Univers Histoire et de la Cochinchina” đã ghi nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam.

 - Năm 1816 vua Gia Long cho cắm cờ, xác nhận chủ quyền trên đảo Hoàng Sa.

 - Năm 1920 vua Minh Mệnh cho quân ra Hoàng Sa vẽ bản đồ và nghiên cứu hải trình. 

 - Năm 1956 Hải quân Việt Nam Cộng hòa, bắt đầu thay thế quân đội Pháp, tuần du trên các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tiểu đoàn 1 TQLC của Việt Nam đóng trên đảo Hoàng Sa

 - Ngày 29 - 1 - 1959, Tổng thống Ngô Đình Diệm, cho ban hành sắc lệnh số 34/NV sát nhập Hoàng sa vào tỉnh Quảng Nam.

 - Ngày 21 - 10 - 1969, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, ban hành sắc lệnh số 709/BNV, sát nhập Trường Sa vào tỉnh Phước Tuy.

 - Ngày 19 - 1 - 1974, Hải quân Trung quốc đánh chiếm Hoàng Sa, quân đội Việt Nam Cộng Hoà đã chống cự quyết liệt, 58 quân nhân Việt Nam hy sinh. Trung quốc chiếm đảo Hoàng Sa. Cộng sản Hà Nội im lặng.

 - Sự kết hợp thiên nhiên: Từ dãy Trường Sơn đến bờ biển Việt Nam, có núi đồi thoai thoải, thấp dần chạy ra biển khơi, tạo ra những hòn đảo như: Cù Lao Chàm ở Quảng Nam, đảo Lý Sơn ở Quảng Ngãi... Điều này phù hợp với sự nghiên cứu của Tiến sĩ khoa học A. Krempf là Giám đốc Viện Hải học Đông Dương, vào năm 1925 ông quan sát, đo đạt trong 2 năm rồi ông phúc trình “Về mặt địa chất, những đảo Hoàng Sa là của Việt Nam” (Géologiquement les Paracels font partie du Vietnam).

 - Về độ sâu: Hoàng Sa sâu 900m và Trường Sa sâu 200 - 400m là độ sâu của thềm lục địa Việt Nam. Ngược lại Hoàng Sa và Trường Sa đến bờ biển Trung quốc có 2 rãnh biển sâu 2300m và 4600m.

IV - Ngẫm nghĩ lịch sử và hiện tại:

- Đời Triệu Ai Vương (113 TCN), Sứ của nhà Hán là An Quốc Thiếu Quý, tình nhân cũ của Cù Thị (mẹ Ai Vương) dụ đem Nam Việt dâng cho nhà Hán. Tể tướng Lữ Gia và quần thần biết được, giết Thiếu Quý, Ai Vương và Cù Thị, rồi tôn Kiến Đức là con của Minh Vương lên làm vua, lấy đế hiệu Triệu Dương Vương.

- Năm 938, Kiều Công Tiễn giết chết Dương Diên Nghệ. rồi thần phục Nam Hán, vua Nam Hán là Lưu Cung và cùng con là  Hoằng Thao, đem quân ào ạt đi xâm lăng nước ta. Dương Cát Lợi báo hung tin cho Ngô Quyền. Ngô Quyền nói:

“Thù trong ngỗ nghịch không tha

Giặc ngoài đánh đuổi, nước nhà mới yên”

Ngô Quyền đem quân đến Đại La. giết chết Kiều Công Tiễn, rồi lo đánh đuổi giặc. Ngày nay có những tên Thiếu Quý trong chính quyền Cộng sản Hà Nội không"! Ngày nay có ai là Lữ Gia, là Ngô Quyền, để đủ sức trừ “thù trong giặc ngoài” không" Có lẽ đủ điều kiện ấy là: Quân đội Nhân dân với toàn dân Việt nam.

-  Nhà Trần chống Quân Nguyên:

  1- Công chúa Trần An Tư: Vào đầu năm Ất dậu (1285). Quân Nguyên vây hãm Thăng Long, để hoà hoãn có thời giang chỉnh đốn quân lực. Nhà Trần phải đem Công chúa An Tư trao cho Thoát Hoan, Trung hiếu hầu Trần Dương lo việc thương thuyết cầu hoà. Công chúa còn trẻ, duyên dáng, hy sinh cá nhân để giang sơn tồn tại. Đến tháng tư quân nhà Trần bắt đầu phản công, quân Nguyên hoàn toàn thất bại.

Dùng dằng giã biệt dạ phân vân

Hòa hoãn việc quân, há lữa lần

Nhẫn nhục má hồng, trao tướng giặc

Đớn đau mệnh bạc, biệt người thân

 2.- Tướng Trần Bình Trọng đem quân ngăn giặc ở Thiên Trường, để Hưng Đạo Vương phò vua đến Hải Dương, ông và các chiến sĩ của ông, chiến đấu dũng cảm, đã làm tròn nhiệm vụ giao phó, nhưng quân số ít oi. Kẻ thì hy sinh tại chiến trường, người thì bị bắt, ông Trần Bình Trọng vẫn khẳng khái không đầu hàng.

Ngăn giặc, để vua đến Hải Dương

Hiên ngang, bị bắt giữa sa trường

Khinh khi lời dụ, cho vàng bạc

Giận giữ tiếng khuyên, nhận tước vương

 3.- Trần Quang Khải là con của Trần Thái Tông, chức Chiêu Minh Vương, quan văn là Thái sư, quan võ là Thượng tướng, vậy mà khi nước nhà bị nguy biến, vẫn nai nịt ra chiến trường và dẫn quân xông xáo nơi trận mạc, tuân hành quân lệnh của Tiết chế Trần Quốc Tuấn.

Nước nhà điêu đứng, dẫu thân vương

Nai nịt hẳn hoi, đến chiến trường

Lẫm liệt xả thân, lo non nước

Lẫy lừng giải phóng, giữ Chương Dương

4.- Trần Khánh Dư là vương gia của nhà Trần, chức Nhân Huệ Vương, ông có công kháng Nguyên xâm lược lần thứ nhất, vậy mà khi có tội vẫn bị phạt phải đi đốt than kiếm sống như thường dân. Hưng Đạo Vương biết ông là vị tướng tài, nên xin vua cho ông phục chức để cùng đánh Nguyên.

Khánh Dư hoàng tộc của nhà Trần

 Thưởng phạt thẳng thừng, chẳng đặc ân

Bị  tội  đốt  than, dù  quốc  thích

Lập công ra trận, dẫu hoàng thân

5.-  Phạm Ngũ Lão lúc còn hàn vi thường ngồi đan sọt, ở ven đường, để bán sinh sống. Chuyện kể: một hôm có một vị quan lớn đi ngang qua, quân lính dọn đường gọi ông tránh, nhưng ông mải mê suy nghĩ nơi chiến trường, làm sao quân ta đánh tan quân Nguyên hung hãn, nên quên đi ngoại cảnh, ông bị lính đâm thủng đùi mà không hay. Sau khi ông được làm tướng nhà Trần, ông đã thể hiện cái tâm ái quốc ấy, ông cùng Trần Quang Khải đánh đuổi quân Nguyên tan tác ở bến Chương Dương, rồi phá giặc ở Vạn Kiếp.

Đan  sọt,  nước  non  tâm  vấn  vương 

Đánh Nguyên tan tác, bến Chương Dương

6.- Trần Quốc Toản là tôn thất của nhà Trần, con Hưng Đạo Vương. Năm 1282 triều Trần biết nhà Nguyên sửa soạn đem đại quân, xâm lược nước ta lần thứ hai, vua Trần mở hội nghị Bình Than để bàn bạc sách lược chống giặc. Trần Quốc Toản lúc ấy 16 tuổi đến xin vào họp, nhưng không được, vì tuổi còn quá trẻ; ông thẹn và giận, quả cam đang cầm trong tay bóp nát không hay.

Ông về nhà may cờ thêu 6 chữ “Phá cường địch, báo Hoàng ân”, rồi tập họp gia đinh, thân thuộc và lính giữ nhà, trang bị gươm giáo dẫn ra trận. Ông ra trận luôn luôn xông xáo đi đầu, dũng cảm can trường, nên quân Nguyên bị ông đánh đuổi tơi tả nhiều lần. Ông cùng Trần Nhật Duật, Nguyễn Khoái đánh bại Toa Đô ở bến Hàm Tử, rồi cùng Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão đánh đuổi Thoát Hoan ở bến Chương Dương, quân Nguyên bị đại bại. Ông làm vẻ vang cho thiếu niên Việt Nam. Dân gian ca tụng:

“Anh hùng Quốc Toản thiếu niên

Giúp vua đánh đuổi giặc Nguyên kinh hồn”

 7.- Ngày 21 tháng chạp, Giáp thân (1284), ở Hồ Quảng, Thái tử Thoát Hoan thống lãnh 50 vạn quân Nguyên, chia làm 2 đạo: Lý Hằng, Ô Mã Nhi đốc suất bộ binh. Toa Đô đem thủy quân, đến hướng Chiêm Thành để đổ bộ đánh vào Thanh Hóa. Khẩn cấp, cũng tháng chạp năm 1284, vua Trần triệu các bô lão và quần thần tới điện Diên Hồng hỏi han ý kiến, các bô lão và nhiều tướng sĩ đồng thanh quyết chiến. Mở tiếp hội nghị Vạn Kiếp, bàn bạc chiến lược chống giặc và kiểm điểm binh sĩ, tất cả được 20 vạn, kể cả quân ở các lộ: Bàng Hà, Na Sầm, chưa tuyển mộ quân ở Thanh, Nghệ, có lẽ nhà Trần nghĩ quân cốt tinh nhuệ, không cần đông đảo.

Giặc tấn công tới tấp, Thái thượng hoàng Thánh Tông và vua Nhân Tông phải rời khỏi Thăng Long. Tháng 2 năm 1285 thế giặc mạnh, các đại thần: Trần Kiện, Lê Tắc, Trần Tú Viên, Trần Văn Lộng nhục nhã đầu hàng giặc. Tháng 5 năm 1285 quân ta phản công mạnh mẽ, bắn chết Toa Đô, tướng Tàu là Lý Quán, dấu Thóat Hoan vào một ống đồng kéo chạy về Tàu.

Diên Hồng hội họp, không nhân nhượng

Xâm lược hãi hùng, hết nhiễu nhương

 8.- Trần Quốc Tuấn văn võ song toàn, ông là con của An Sinh vương Trần Liễu. Vua Trần phong ông chức Tiết Chế (như Nguyên soái), tước Hưng Đạo Vương. Trần Thủ Độ bắt vợ của Trần Liễu đem gả cho Trần Thái Tông, nên Trần Liễu dặn con là Trần Quốc Tuấn sau này phải giết vua để trả thù nhà, nhưng Vương đặt quyền lợi quốc gia, trên quyền lợi gia đình.

Gia cừu, nhường nhịn, lo non nước

Quốc loạn đắn đo, giữ thổ cương

    Năm 1284, quân Nguyên sắp sửa xâm lăng nước ta lần thứ 2, thế giặc mạnh quá vua than: “Trẫm muốn hàng để tránh đao binh cho muôn dân bá tánh”. Vương thưa: “Nếu bệ hạ muốn hàng, xin chém đầu thần trước đã”. Nhờ vậy mọi người đều hăng hái đánh giặc. Năm 1288 quân Mông Cổ xâm lược nước ta lần thứ 3, trên bờ Vương cho phục binh, lăn đá gỗ chặn đường, dùng tên bắn giặc chết nằm ngổn ngang. Dưới sông Bạch Đằng, Vương cho đóng cọc, khi thủy triều lên đem quân khiêu chiến, thủy triều xuống phản công tới tấp, giặc chết vô số. Vương truyền “Hịch tướng sĩ” lời lẽ hào hùng, thống thiết, khi nghe xong, ai cũng nức lòng đánh giặc.

Trên bộ bắn tên, Nguyên mạc lộ

Dưới sông đóng cọc, giặc cùng đường

Bạch Đằng hiển hách, tan hồn giặc

Vạn Kiếp ngạt ngào, tỏa khói hương

Nước Đại Việt chiến thắng quân Nguyên, là vì từ vua đến dân đều tận tâm, tận sức.

Dân như Phạm Ngũ Lão khi còn cơ cực, trong lúc đang làm lụng vẫn đắn đo nơi chiến trường; vua thì mở hội nghị bàn bạc với dân nên hòa hay chiến, Tướng như Trần Bình Trọng, Nguyễn Khoái... và binh sĩ lúc bấy giờ, thì can trường chống chọi xâm lăng, sẵn sàng tử chiến. Thái sư Trần Quang Khải, vẫn nai nịt ra trận, Công chúa An Tư đem thân ngọc ngà trao cho Tướng giặc, để hoà hoãn cho quân ta chỉnh đốn quân ngũ, còn có thể cung cấp tin tức của địch cho ta. Thiếu niên 16 tuổi như Trần Quốc Toản thì tự nguyện xông xáo chiến trường. Luật pháp nghiêm minh, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư khi có tội vẫn bị phạt như thường dân. Trần Quốc Tuấn dẹp bỏ thù nhà, dốc lòng lo lắng quê hương. Một đất nước mà tất cả quân dân một lòng, vua tôi hoà thuận, luật pháp nghiêm minh, lại được một nhân tài lỗi lạc là Đức Trần Hưng Đạo điều quân khiển tướng, thì quân Nguyên mạnh mẽ đến mấy, hung hãn đến đâu, cũng bị đánh đuổi tả tơi, thì làm sao Việt Nam không chiến thắng vẻ vang.

Thanh thiếùu niên Việt Nam bây giờ, nung nấu tấm gương oanh liệt của Trần Quốc Toản, những tấm lòng nhiệt huyết của Sinh viên, biểu tình tại Sài Gòn và Hà Nội ngày 9- 12 - 2007 và ngày 16 - 12- 2007. Là ngọn lửa hào hùng, lại bị Công an đàn áp. Vì sao"!

Quân đội được gọi “Khó khăn nào cũng vượt  qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” thì im hơi lặng tiếng. Chính quyền thì lo bắt bớ những người đấu tranh dân chủ, lo bòn rút của cải nhân dân, tẩu tán tài sản quốc gia, củng cố địa vị, thì làm sao giữ gìn toàn vẹn giang sơn.    

 - Năm 1527, Mạc Đăng Dung bắt Vua Lê,viết chiếu nhương ngôi. Đầu năm 1541, biết nhà Minh lăm le xâm lăng nước ta, lấy kế phạt tội họ Mạc soán ngôi nhà Lê, Mạc Đăng Dung tự trói mình trước phủ của quân Minh ở trấn Nam Quan, nhục nhã nạp dâng vàng bạc và 6 động: Tế Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liêu Cát, An Lương và La Phu cho nhà Minh. Ông lo lắng và thẹn thùng trước sự dâng hiến đất đai nhục nhã này, nên buồn bực bị bệnh mất vào năm ấy.

Hí hửng lên ngai, người bội bạc

Nhuốc nhơ dâng đất, kẻ toi đòi

Mạc Đăng Dung dâng đất cho ngoại bang bị nhân dân nguyền rủa, khinh khi, nhưng ông ta còn biết thẹn thùng, sau khi dâng đất cho nhà Minh, về nhà, ngẫm nghĩ thấy xấu hổ, nên lâm bệnh mà chết. Ngược lại ông Phạm Văn Đồng, ông Hồ Chí Minh và các ông Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam hiện  nay, cũng dâng đất cho ngoại bang, nhưng không biết xấu hổ, vẫn hí hửng phè phỡn sống. Vì sao"!

V - Khẩn khỏan đề nghị:

1.- Chính phủ Việt Nam cũng như các Tổ chức đấu tranh, trình bày cho Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc về việc Trung quốc lấn chiếm Hoàng Sa và Trường Sa, gây ra xung đột, có thể bị Trung quốc phủ quyết, nhưng đấy là một bằng chứng.

2.- Việt Nam hợp tác chặt chẽ hơn với các nước: Hoa Kỳ (Mỹ lo ngại sự bành trướng cuả Trung cộng), Nhật Bản (Nhật bản và Trung quốc có nhiều sự bất hoà), Ấn Độ (Ấn Độ và Trung quốc rắc rối về biên giới giữa hai nước và gần đây công ty dầu khí Ắn Độ ONGC Videsh cũng không hài lòng với Trung quốc). Khi liên hiệp với các cường quốc này rồi, thì Việt Nam bớt lo lắng thân phận nhược tiểu của mình.

3 - Việt Nam liên minh với các nước đang bị Trung quốc lấn chiếm Trường Sa là

Malasia, Philipines, Indonesia... lập ra cơ chế để giải quyết ranh giới biển Đông  nơi Trường Sa được công bình và hợp lý, cho mỗi quốc gia liên hệ.

4.- Yêu cầu Cộng sản Hà Nội, công bố các văn kiện về việc dâng đất và biển cho Trung quốc, kể cả những hiệp định đã biết và chưa biết.

5.- Đồng bào  trong và ngoài nước Việt Nam, không mua hàng hóa sản xuất từ Trung quốc, để chứng tỏ đồng bào Việt Nam phản đối Trung quốc khắp nơi.

6.- Đồng bào trong và ngoài nước liên tục biểu tình, đòi trả lại đất đai và các hải đảo, biển khơi của Việt Nam mà Trung quốc đã cưỡng chiếm.

7.- Hiện nay có khoảng 6.000 Sinh viên Việt Nam đang du học tại Mỹ, chúng ta là người Việt hải ngoại, hãy xem những Sinh viên ấy là ruột rà, đáng được thân thiện, mặc dù cha mẹ của họ là các cán bộ Cộng sản Việt Nam đáng trách. Nhưng các em đâu có lỗi lầm gì, vì sao chúng ta không gần gũi, phân trần cái tai hại, lỗi thời của chế độ Cộng sản và nắm tay anh em Sinh viên ấy, cùng chống kẻ thù Phương Bắc, đã đang và sẽ xâm lấn hay xâm lượt non nước Việt Nam.

Bất bình mà viết, cuối năm 2007

Nguyễn Lộc Yên

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.