Hôm nay,  

Giấc Mơ Ra Biển Lớn

22/05/200900:00:00(Xem: 8298)

Giấc Mơ Ra Biển Lớn

Mai Thanh Truyết
Từ thập niên năm 60 ở thế kỷ 20 vừa qua, Orson Wells, văn hào Anh đã từng tiên đoán về những hệ luỵ hết sức tiêu cực của tư bản chủ nghĩa qua kinh tế thị trường, sự tăng gia sản xuất tối đa, tận dụng tài nguyên thiên nhiên để thoả mản sản xuất… Từ đó, ông bi quan cho tương lai thế giới sẽ đi đến một cơn khủng hoảng lớn cho tương lai…
Tiếp theo, Thomas Friedman nói về quá trình suy sụp của một số quốc gia giàu tài nguyên như dầu hoả, vàng, khí đốt v.v… sử dụng các tài nguyên trên như một nguồn lợi chính của quốc gia và không nghĩ đến việc cân bằng trong việc xuất huyết tài nguyên thiên nhiên để chuyển hoá việc phát triển theo tiến trình phát triển bền vững.
Lãnh đạo của các quốc gia nầy ăn trên ngồi trước trên đống “vàng” mà thiên nhiên ưu đãi cho đất nước họ, quên hẳn việc cần phải làm là tạo dựng hạ tầng cơ sở cho quốc gia, mang lại phúc lợi cho người dân…
Họ đã nhiễm căn bịnh thời bấy giờ gọi là “Căn bịnh Hòa Lan”. Đó là những quốc gia vùng Trung Đông với nguồn dầu hoả dồi dào, các nước Phi Châu với vàng và kim cương vô tận. Người dân và chính quyền sở tại bắt đầu vọng ngoại, chỉ biết tung tiền dễ dàng kiếm được mà không nghĩ đến việc phát triển đất nước đích thực.
Tuy nhiên cũng cần phải nói thêm là, một số lãnh đạo của các quốc gia “giàu tài nguyên” trên cũng có ý thức xây dựng và phát triển quốc gia, nhưng vì áp lực của các tài phiệt Tây phương trên chính sách hợp tác và khai thác khiến cho họ không còn khả năng thực hiện sự phát triển đất nước theo ý muốn là mang lại phúc lợi cho người dân.
Rồi thời gian qua, chúng ta thấy được những gì" Các quốc gia kể trên, sau nhiều thập niên qua, dân trí vẫn còn thấp kém, phúc lợi tạo dựng không tăng trưởng, đời sống kinh tế của người dân cũng còn ở mức thấp. Tất cả lợi nhuận cho việc xuất cảng tài nguyên thiên nhiên chỉ mang lại phồn vinh cho cấp lãnh đạo hay vua chúa của các nước nầy. 
Trong lúc đó, các quốc gia nghèo tài nguyên như Đại Hàn, Tân Gia Ba, Mã Lai, Đài Loan, thậm chí các quốc gia như Thái Lan, Phi Luật Tân…đã không ngừng phát triển  theo chiều hướng đẩy mạnh công nghiệp và dịch vụ trong nước, an sinh xã hội không ngừng tăng trưởng, do đó, đời sống người dân dần dần dược cải thiện và nâng cao trong hiện tại.
Phát triển ngày hôm nay cần phải được hiểu theo ý nghĩa là phát triển “trên đất” chứ không phải là phát triển “dưới đất” vì nguồn tài nguyên thiên nhiên là một nguồn tài nguyên không bồi hoàn, không tái tạo lại được. Do đó, khi nguồn tài nguyên kia cạn kiệt, đất nước sẽ có nhiều nguy cơ khủng hoảng vì không kịp chuẩn bị thích ứng với tình trạng thiếu hụt ngoại tệ trong việc xuất cảng tài nguyên thiên nhiên trước kia.
Đó cũng là trường hợp của một số quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Phát triển qua việc xuất cảng tài nguyên
Trong quá trình phát triển và mở cửa của Việt Nam từ năm 1986 trở đi,Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhưng so với thời gian và mức độ phát triển cùng mức độ đầu tư, chúng ta vẫn thấy Việt Nam có những bước phát triển chậm và không theo kịp mức độ phát triển bình thường so với các quốc gia ngang tầm kể trên.
Lý do, mức độ phát triển của một quốc gia trung bình là với 3 Mỹ kim đầu tư có thể cho ra 1 Mỹ kim sản phẩm, trong lúc đó Việt Nam phải cần đến 5 hay 6 Mỹ kim để có được kết quả như trên.
Việt Nam lại tận dụng nguồn nguyên liệu thiên nhiên hiện có và tự ru ngũ bằng những mỹ từ như “rừng vàng bạc biển”.
Rừng vàng đâu không thấy, nhưng chỉ thấy, vì sự khai thác vô tội vạ, không có kế hoạch đã làm đão lộn hệ sinh thái của toán đất nước từ Bắc chí Nam. Hiện tượng mưa gió bất thường, lũ lụt, hạn hán…không còn nằm trong chu kỳ giống như trước khi phát triển và xảy ra thường xuyên hơn. Đó là hậu quả tất yếu của việc xuất cảng gỗ qua việc phá rừng.
Bạc biển đâu không thấy, nhưng qua việc phát triển các khu du lịch bờ biển làm cho nước biển bị ô nhiễm, các vùng san hô, nơi cư trú và sinh sản cho tôm cá hầu như không còn nữa. Một loại cá nục nổi tiếng của vùng Phan Thiết, Ninh Thuận, nay hấu như tuyệt tích và đã di chuyển sang tận Phi Luật Tân.


Hàng năm, Việt Nam sản xuất khoảng 9 triệu tấn dầu thô (năm 2008). Tất cả đều xuất cảng và đã xuất cảng sang Trung Cộng 6,7 triệu tấn. Tất cả tiền dầu thô bán được cũng không thanh toán được cán cân mậu dịch do việc nhập cảng xăng dầu cho nhu cầu trong nước. Thêm nữa, nếu lượng dầu thô sản xuất được trong nước được xử lý hoá dầu (refinery), Việt Nam có thể ngoài việc cân bằng cán cân mậu dịch trên mà còn có khả năng giải quyết được nhu cầu hoá chất căn bản cần thiết cho phát triển và bảo đảm hàng chục ngàn công ăn việc làm cho người dân.
Và còn nhiều nhiều nữa, xuất cảng nông nghiệp như lúa gạo, các cây công nghiệp như cao su, trà, tiêu, cà phê…, xuất cảng tôm , cá…dành được hạng thứ cao trên thế giới so sánh với các quốc gia khác, nhưng vẫn không mang lại hay cải thiện đời sống của người nông dân và chăn nuôi thuỷ sản.
Thực sự, những thành phẩm xuất cảng trên không đem lại thêm phúc lợi cho người dân mà chỉ giải quyết nhu cầu lao động ngày càng tăng trong xứ. Đất nước chỉ sống “cầm hơi” ngoại trừ một thiểu số cầm quyền và những người có liên quan đến gia đình hay quyền lợi của cán bộ cộng sản mà thôi. Và di sản để lại cho các thế hệ về sau là một tình trạng môi trường cực kỳ xấu xa cùng mức ô nhiễm đến mức báo động cho toàn đất nước.
Một nhà sử học Nga đã đánh giá hiện tượng nầy như là một bước phát triển có tỷ lệ nghịch với tiến trình dân chủ trong một quốc gia qua phát biếu: ”Một khi chính phủ tập trung vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên nhưng không chú trọng đến việc sản xuất ra thành phẩm, thì nó không cần đến dân chúng nữa.” Vì chế độ có thể lúc nào cũng kiểm soát và áp đặt được dân chúng qua chính sách kiểm soát kinh tế qua các công ty quốc doanh để cho các nhà sản xuất khó có thể bước thêm một bước trong việc phát triển theo kinh tế thị trường.
Cái đuôi phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cái thắng hữu hiệu nhứt của lãnh đạo Việt Nam dùng để xiết chặt hầu bao của những nhà sản xuất có viễn kiến cũng như mạnh dạn đầu tư. Từ đó, thiếu vắng một sự cạnh tranh công bằng, một yếu tố căn bản cho sự phát triển quốc gia.
Ngày hôm nay, thêm một lần nữa, Việt Nam đang làm thêm một lầm lỗi lớn nữa là việc khai thác quặng mõ bauxite ở Cao nguyên Trung phần Việt Nam. Một lỗi lầm mà không thể nào xoá được đối với lịch sử trong tương lai.
Việt Nam đã bất chấp mọi cảnh báo của những người dân yêu nước trong và ngoài lãnh thổ để mặc nhiên cho TC tận dụng nguồn tài nguyên vốn không còn lại bao nhiêu và là một vùng hiểm yếu của quốc gia.
Có thể quy kết rằng, tất cả những thảm trạng hiện đang xảy ra cho Việt Nam là do chính đảng cộng sản Việt Nam gây ra ngay từ khi “thống nhứt” lãnh thổ. Và việc để cho TC khai thác vùng cao nguyên Trung phần Việt Nam là một lỗi lầm sau cùng đưa đến nguy cơ mất hoàn toàn chủ quyền của dân tộc. Sự việc nầy thực sự đã được hai đảng cộng sản Trung-Việt kết ước từ sau hội nghị trung ương đảng lần thứ IX, nghĩa là đã hơn 10 năm qua.
Điều trên chứng tỏ rằng, Bộ chính trị công sản Việt Nam chính là người chủ mưu cùng với công sản Trung Hoa thực hiện chiều hướng của cộng sản quốc tế là kiểm soát toàn thể vùng Đông Nam Á, và Việt Nam qua câu chuyện bauxite chỉ là một mắc xích nằm trong toàn bộ tiến trình chiếm đóng trên mà thôi.
Có thể đây là điểm khởi đầu cho sự tan rã của chế độ chăng"
Giấc mơ ra biển lớn của Việt Nam dưới sự cai trị độc đoán của đảng cộng sản Việt Nam khó có khả năng trở thành hiện thực và cái giá của sự sai lầm sẽ được ghi vào những trang sử hiện đại của nước nhà.
Đã đến lúc mọi người dân trong và ngoài nước cần phải nhận thức được thảm hoạ trên và cần phải hành động theo những phương thức thích hợp với điều kiện và hoàn cảnh của mình.
Mọi sự thờ ơ thụ động có thể được xem như là đồng lõa cùng với kẻ ác để bán đứng Đất và Nước Việt Nam.
Mai Thanh Truyết
Ngày Chiến sĩ trận vong 2009.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.