Hôm nay,  

Nhân Sinh Tiểu Dị Đại Đồng

15/07/200900:00:00(Xem: 5515)
Nhân sinh tiểu dị đại đồng 
Đòàn Thanh Liêm 
Vào cuối tháng Năm vừa rồi, tôi sinh sống cả một tuần lễ với gia đình của Jim và Sandy Foster tại thành phố Knoxville, tiểu bang Tennessee. Sandy thường hay chở tôi đi siêu thị mùa đồ ăn, hay đi việc này chuyện nọ. Dọc đường, chúng tôi thường chuyện trò với nhau. Có lần Sandy tâm sự : “Tôi không có cơ hội đi ra nước ngòai nhiều, nhưng mà tại thành phố này tôi đã có dịp gặp gỡ với rất nhiều bà con từ các nước xa xăm đến đây, và tôi thấy rằng người ta hầu hết ai thì cũng giống như người Mỹ chúng tôi ở đây thôi. Họ cũng yêu thương, chăm sóc cho lũ con lũ cháu của họ, y hệt như chúng tôi cũng yêu thương con cháu của mình vậy. Là người phụ nữ, tôi phải dành hết thời gian để lo lắng cho chồng, cho con, thì các phụ nữ ở các quốc gia khác cũng đều làm như tôi tất cả vậy thôi. Thành ra, con người ta sống trên cõi đời này, thì suy nghĩ và hành động cũng đều giống nhau cả. Do vậy mà cần phải có sự thông cảm và lòng bao dung mà đối xử với nhau…”
Tôi thật tâm đắc với lời phát biểu này của Sandy. Tôi góp lời bàn thêm với chị : Ở Việt nam, thì ngay từ hồi xưa cha ông chúng tôi vẫn thường nói rằng “ Nhân sinh tiểu dị đại đồng”, tức là con người ta sinh sống trên đời này, thì cái khác biệt với nhau nhỏ bé ít ỏi thôi, mà cái giống nhau mới thật là lớn lao rộng rãi. Do vậy, mà ngay từ hồi còn tấm bé, tôi vẫn được nghe cha mẹ và các bậc cô bác trong gia tộc nhắc nhở cho cách xử thế ngòai xã hội, đặc biệt là những câu như “Dĩ hòa vi quý”, “Bốn bể một nhà” v. v…
Sandy hiện làm Tuyên úy (Chaplain) cho nhà thương Nhi đồng ở Knoxville. Chị cho biết đã phải theo học lớp đào tạo mấy năm tại một cơ sở huấn luyện đào tạo ở Virginia và qua một kỳ thi tốt nghiệp, thì chị mới được cấp phát chứng chỉ hành xử nhiệm vụ này (credentials). Vào tuổi 70, Sandy vẫn còn rất tháo vát năng động. Tôi đã trở thành người bạn thân thiết quen thuộc với gia đình anh chị Sandy và Jim từ năm 2001, khi hàng năm cứ vào dịp hè là tôi tới tham gia workshop về Xây dựng Hòa bình tại Knoxville.
Tại hải ngọai, từ ít lâu nay chúng ta thấy có nhiều sự khác biệt mâu thuẫn giữa các thành viên trong cộng đồng người tỵ nạn. Theo dõi một số trường hợp, tôi thấy lúc đầu chỉ là do sự hiểu lầm với nhau mà thôi, nhưng vì lý do tự ái hay vì thành kiến tỵ hiềm sao đó, mà sự việc lại biến thành mâu thuẫn nặng nề, trầm trọng khiến tạo ra sự đổ vỡ sứt mẻ không làm sao mà hàn gắn lại được nữa. Rõ ràng là “việc bé mà cứ xé ra to”, như dân gian thường nói vậy đó. Nhất là trên các mạng lưới thông tin, mỗi ngày ta cứ gặp phải các bài viết phê phán, bới móc mạt sát lẫn nhau với những ngôn từ rất ư là nặng nề,gay gắt. Tình trạng này thật đã đến mức báo động, khiến cho có người phải cay chua nói rằng : “Đó là chốn gió tanh, mưa máu”, người ta sát phạt chì chiết lẫn nhau, không còn biết kiềm chế lời ăn tiếng nói trước công chúng nữa! Và từ đó mà có một số người mới tìm cách xa lánh những sinh họat cộng đồng, giữ thái độ “mũ ni che tai”, không còn muốn gặp gỡ tiếp xúc với quần chúng đám đông nữa. Tình trạng này hiện làm cho lề lối sinh họat tập thể mỗi ngày một kém đi cái vẻ sinh động hồn nhiên, phấn khởi tươi vui mà đúng ra phải là một biểu hiện rõ nét nhất trong một xã hội cởi mở phóng khóang, đa diện đa nguyên trên một nước Mỹ tự do, đa chủng tộc, đa văn hóa này. Tình trạng này thật là điều đáng tiếc, mà những ai có quan tâm đến nếp sinh họat cộng đồng, thì không thể khoanh tay bất động mãi được nữa rồi. Thiết nghĩ đã đến lúc các bậc trưởng thượng, các vị niên trưởng với đạo cao đức trọng cần phải hợp lại với nhau, để cùng tìm ra được phương cách chấn chỉnh lại tình trạng lệch lạc như thế này.
Trở lại với dòng suy nghĩ miên man của tôi về thế cuộc như được khai mở từ nhan đề của bài viết này, tôi muốn nhắc lại câu đối thọai trong cuốn chuyện Doctor Zhivago cùa văn hào người Nga là Boris Pasternak như sau : “Cuộc sống của bạn là ở trong những ngưới khác” (nguyên văn trong bản dịch tiếng Pháp : “Votre vie, c’est dans les autres”). Tôi thật tâm đắc với lời phát biểu thật gọn gàng xúc tích như thế này. Câu này cũng tương tự như câu dân gian thường hay nói “Trong người có ta, mà trong ta cũng có người”. Ta thử xét trường hợp của một người thợ sửa xe hơi chẳng hạn, anh ấy có gia đình sống chung với vợ, với con. Thì cuộc sống của anh ấy hàng ngày tỏa chiếu ra (radiate) trong sinh họat của các thành viên khác trong gia đình. Đặc biệt là lũ con thì được cấu tạo từ máu huyết của chính anh là người cha sinh ra các cháu. Rồi anh cũng tỏa chiếu ra nơi cuộc sống của tất cả bà con, bạn bè thân thiết của anh nữa. Và đối với chúng ta là những thân chủ mang xe đến nhờ anh sửa chữa cho, thì mỗi người chúng ta đều tiếp nhận được từ nơi anh những cảm tình, suy nghĩ thông qua sự giao tiếp hai chiều giữa ta và anh ấy xuyên qua chuyện sửa xe này. Như vậy là anh bạn thợ sửa xe cho chúng ta rõ ràng là vẫn đang chia sẻ cuộc sống với gia đình của anh và với chúng ta là những thân chủ của anh trong dịch vụ sửa xe anh làm cho chúng ta.

Trường hợp của các thầy cô giáo hay của các bác sĩ y tá v.v…, thì lại càng rõ nét hơn nữa. Các học sinh mà tiếp nhận lời giảng giải của thầy cô, cũng như các bệnh nhân được tiếp nhận sự chăm sóc sức khỏe của bác sĩ, y tá, thì đều được ghi rõ dấu ấn của các sự chăm sóc này. Và như thế là các nhà giáo và cán bộ y tế luôn tỏa chiếu vào cuộc sống của học trò và của bệnh nhân, xuyên qua các hành động phục vụ chuyên môn của mình đối với các thân chủ đối tượng đó. 
Trong ngôn ngữ của Phật giáo, tôi thấy chữ “Cộng nghiệp” thật là đắc dụng để mà diễn tả cái mối tương quan nhân bản này. Đó là cái diễn trình thông dụng thường ngày của mỗi người chúng ta trong cuộc sống tập thể giữa môi trường xã hội ngày nay vậy. Tất cả đều liên hệ gắn bó bền chặt thân thiết với nhau. Nó đã quá hiển nhiên, đến độ nhiều khi chúng ta không còn để ý suy nghĩ gì về cái khía cạnh rất ư là nhân bản, là tự phát ( human/spontaneous) như thế đó nữa. Và lời phát biểu của Pasternak ghi ở trên đã giúp chúng ta suy ngẫm sâu lắng hơn về mối tương quan có tính chất cơ hữu (organic relationship) giữa mỗi người với tha nhân trong xã hội. Câu nói này lại làm tôi nhớ lại một câu nói của Martin Buber, triết gia người Do thái rất nổi danh, khi ông viết rằng : “ Sự phát triển của mối tương giao của ta với người khác là một quá trình đi từ chỗ “kẻ xa lạ” để tiến dần đến sự thân quen trong cuộc đối thọai “ (Dialogical Relationship : From It to Thou). Người Việt ta cũng thường nói :” Trước lạ, sau quen”, nhằm mô tả cái quá trình con người ta trở thành thân quen với nhau thông qua sự tiếp xúc, gần gũi, tìm hiểu và thông cảm lẫn nhau.
Để nói cho vắn tắt gọn gàng hơn, ta có thể mượn lời của người xưa đã từng phát biểu qua những câu thật xúc tích, mà trước đây tôi đã lấy làm nhan đề cho bài viết của mình trong thời gian gần đây. Cụ thể như câu “Quân tử hòa nhi bất đồng” và câu “Lượng cả bao dung”. Trong cả hai bài viết có nhan đề như trên, tôi đã trình bày ra nhiều chi tiết rồi, nên không cần phải nhắc lại ở đây nữa. Mà tôi chỉ xin nhấn mạnh đến cái khía cạnh mà mọi người chúng ta cùng chia sẻ cuộc sống trên hành tinh trái đất này, thì chúng ta có nhiều sự đồng thuận, cùng chung một đất đứng (common ground), cùng chung một mẫu số với nhau, nhiều hơn là có sự mâu thuẫn tranh chấp về niềm tin tôn giáo, về chánh kiến khác nhau, hoặc dành giật xâu xé vì quyền lợi vật chất nhỏ nhen với nhau. Và đặc biệt giới sĩ phu quân tử vốn là nguyên khí của quốc gia, là thành phần tinh hoa của dân tộc, thì càng cần phải đi bước trước trong công cuộc xây dựng hàn gắn lại cái tình con người, cái nghĩa đồng bào, mà từ trên 60 năm nay đã bị phá sản, đổ vỡ, bị làm cho băng họai do cái chủ trương sắt máu “hận thù giai cấp, chuyên chính vô sản” theo mô hình của Liên Xô, Trung quốc do người cộng sản du nhập vào trong nước ta, khiến gây ra bao nhiêu thảm cảnh tàn phá hủy diệt tòan bộ cái nền luân lý đạo đức truyền thống tốt đẹp, cái tinh thần nhân ái hiếu hòa giữa các cộng đồng thôn xóm, mà từ bao nhiêu đời cha ông chúng ta đã xây dựng được, và truyền lại cho thế hệ chúng ta gần đây, cho đến đầu thế kỷ XX.
Vào đầu thế kỷ XXI này, với sự tiến bộ vượt bậc về khoa học kỹ thuật, cộng với trình độ phát triển cao về mặt kinh tế, người Việt ở trong cũng như ở ngòai nước chúng ta thì đều có đủ mọi điều kiện vật chất để xây dựng, tái thiết và phát triển đất nước khả dĩ có thể đưa dân tộc thóat được cái vòng oan nghiệt luẩn quẩn của tệ nạn nghèo túng, lạc hậu và chậm tiến. Chúng ta không thiếu phương tiện vật chất, kỹ thuật hay tài chánh để có thể xúc tiến việc xây dựng này. Nhưng cái mà chúng ta vẫn còn thiếu, mà thiếu rất ư trầm trọng, đó là chưa thu phục được nhân tâm để cho” tòan thể dân tộc quy về một mối”, như hồi xưa trong “Hội nghị Diên Hồng”, cha ông chúng ta đã tạo ra được một khí thế, một sự “đồng thuận tòan dân, vua tôi một lòng” thật tuyệt vời, để có thể đánh bại được quân xâm lăng Mông cổ vốn rất là tàn bạo hung hãn. Chúng ta vẫn chưa có được sự nhất trí, đồng lòng trọn vẹn hầu đối phó được với cái nạn “Nội xâm” rất ư là nguy hiểm, tàn tệ do một thiểu số người lãnh đạo của đảng cộng sản hiện đang nắm giữ quyền bính tại Hanoi, mà lại toa rập với ý đồ bành trướng rất là thâm độc, ngoan cố của Bắc kinh.
Đấy chính là cái vấn nạn, cái khúc mắc nghiêm trọng đặt ra cho giới sĩ phu trí thức, lớp người ưu tú nhất của dân tộc. Trước tình hình nguy ngập “dầu sôi lửa bỏng” hiện nay, những con người thật tâm mến nước thương nòi thì không thể nào lẩn tránh được cái trách nhiệm nặng nề mà cũng rất cao quý, đó là phải nêu cao tấm gương hy sinh tận tụy đến độ quên cả bản thân mình đi, dẹp bỏ được mọi mặc cảm tỵ hiềm, tự ái cá nhân, để mà cùng hợp tác với nhau hầu cứu lấy nước, bảo vệ đựợc danh dự của tòan thể giống nòi thân yêu của chính mình vậy./
California Tháng Bảy 2009
Đòan Thanh Liêm

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.