Hôm nay,  

Kinh Tế Lủng Củng

20/07/201000:00:00(Xem: 9386)

Kinh Tế Lủng Củng
Vũ Linh

Khi chính khách nói chuyện thì ta cần nghe rõ từng câu...

Đầu tháng Sáu vừa qua, TT Obama lên truyền hình rầm rộ quảng bá kinh tế đang trên đường phục hồi với thống kê cho thấy trong tháng Năm đã có hơn 430.000 người kiếm được việc làm. Nhưng đến cuối tháng thì thống kê cho thấy trong tháng Sáu sau đó, có 125.000 người mất việc. TT Obama không nói gì nữa, để bà Bộ trưởng Lao Động Hilda Solis viết bài cho AOL News, giải thích chuyện mất việc như là kết quả của một sự kiện bất bình thường vì 225.000 người trước đây được thuê làm nhân viên đi thu thập dữ kiện kiểm kê dân số (census) đã nghỉ việc vì xong công tác. Theo bà Solis, thì trong tháng Sáu đã có trên dưới 100.000 (225.000 trừ 125.000) công việc làm mới được tạo ra. Bà cũng cho rằng kinh tế trong nửa năm đầu của 2010, đã tạo ra 600.000 việc làm mới, đại khái 100.000 mỗi tháng.
Khi các chính khách nói chuyện thì ta cần phải nghe cho rõ từng câu.
TT Obama kể công đã tạo ra hơn bốn trăm ngàn việc làm, nhưng tuyệt đối không nói gì về chuyện trong con số đó đã có 390.000 người được thuê tạm thời để kiểm tra dân số. Nhưng khi bà Solis phân trần chuyện thất nghiệp gia tăng, thì bà nhấn mạnh đó là hậu quả của việc hoàn tất kiểm kê dân số. Nói cách khác, yếu tố kiểm kê dân số, là yếu tố then chốt trong thống kê về việc làm trong mấy tháng qua, chỉ được nhắc đến khi cần, nhưng lờ đi khi không cần.
Thống kê là những con số vô tri vô giác, hoàn toàn tùy thuộc vào cách diễn giải. Ví dụ như thống kê cho thấy hơn 80% thiên hạ chết trên giường, từ giường bệnh nhà thương đến giường ngủ ở nhà. Như vậy, ta có thể diễn giải cái giường là nơi nguy hiểm, đe dọa tính mạng ta nhất hay không"
Sự thật là các con số về việc làm liên quan đến cuộc khảo sát dân số, 10 năm lại làm một lần, thì không thể được tính vì chỉ là nhất thời, không có ảnh hưởng lâu dài gì đến công ăn việc làm hay chuyện kinh tế phục hồi hay chưa.
Bà Solis cũng không hoàn toàn ngay thẳng khi quảng cáo kinh tế đã tạo ra hơn nửa triệu việc trong sáu tháng đầu năm nay. Con số đó không sai, nhưng không là con số đáng phấn khởi. Như đã trình bày trên cột báo này, kinh tế Mỹ muốn trở về tỷ lệ thất nghiệp của cuối trào Bush, tức là 5%, phải “đẻ ra” ít nhất 400.000 việc làm mỗi tháng trong ba năm liên tục, chứ 600.000 việc trong 6 tháng thì tỷ lệ thất nghiệp 10% hiện nay sẽ tồn tại vĩnh viễn!
Mới đây, sau khi thăm dò dư luận cho thấy 60% dân Mỹ nghĩ rằng luật kích cầu chẳng mang lại lợi ích gì cho họ, Tòa Bạch Ốc vội quảng cáo rằng kế hoạch này đã tạo ra được gần ba triệu việc làm trong năm qua. Kích cầu kinh tế có hiệu ứng thực sự" Không phải vậy. Khoe tạo ra ba triệu việc làm không là nói láo, nhưng không phải là nói hết sự thật. Điều không được nói ra là đó là con số gộp, chưa khấu trừ những việc làm bị mất. Khấu trừ rồi thì chỉ còn 600.000 như bà Solis khoe. Thực tế, tỷ lệ thất nghiệp của năm ngoái là 10%, bây giờ chỉ giảm được xuống 9,5%.
Hơn 860 tỷ đôla kích cầu kinh tế chỉ làm giảm tỷ lệ thất nghiệp từ 10% xuống 9,5%. Nếu tính nhẩm trên đầu ngón tay là 860 tỷ bằng 0,5%, thì muốn thất nghiệp giảm năm điểm, xuống mức 5% của cuối trào Bush, Nhà Nước cần phải tung ra 8.600 tỷ kích cầu. Đối với TT Obama có thể chỉ là bạc lẻ, nhưng nước Mỹ có gánh nổi con số này không"
Một cách nhìn khác là 860 tỷ tạo được gần ba triệu việc làm, như vậy vị chi Nhà Nước phải bỏ ra khoảng 300.000 đô để tạo ra một việc làm. Có thể nói là tất cả những người mới có việc đều chỉ có lương nhiều lắm là 50 ngàn một năm. Bỏ ra 300.000 để tạo ra một việc làm trả lương dưới 50.000" Có lợi hay không thì trẻ em tiểu học cũng trả lời được. Thay vì khổ sở tạo việc làm với mức lương 50.000, tại sao Nhà Nước không tặng thẳng 50.000 tiền mặt cho mỗi người, và như vậy, với gần 900 tỷ, sẽ giúp được 18 triệu người, thay vì ba triệu" Vừa nhiều người được hưởng lợi hơn, vừa tiện việc sổ sách.
Nhưng, tại sao kinh tế vẫn chưa khá hơn"
TT Obama dĩ nhiên đổ thừa là gia tài TT Bush để lại đã tệ hại hơn dự tính của ông quá nhiều. Và ông đề nghị… tăng thêm ngân sách kích cầu kinh tế. Gói kích cầu nguyên thủy là 780 tỷ, sau đó tăng lên 860 tỷ, bây giờ được đề nghị gia tăng thêm 270 tỷ nữa. Quốc hội đang cứu xét. Ta cũng cần nhớ lại gói kích cầu không phải là số tiền khổng lồ duy nhất mà TT Obama đã bơm vào kinh tế. Cùng lúc với gói đó, TT Obama cũng đã tung ra phụ đính ngân sách hơn 400 tỷ, và kế hoạch cải tổ y tế hơn 1.000 tỷ. Không kể gói 700 tỷ cứu nguy ngân hàng được ban hành cuối năm 2008 dưới thời TT Bush.
Nhìn vào những quyết định của TT Obama và nhóm chuyên gia của ông, thì ta thấy rõ quan điểm của họ về cách điều hành kinh tế cả nước, gọi là kinh tế vĩ mô, kinh tế đại tượng ở cấp quốc gia. Đây là quan điểm của trường phái “tân Keynesian” mà chúng ta cũng nên hiểu cho rõ hơn.
Trước Đệ Nhị Thế Chiến, tư tưởng chủ yếu trong kinh tế vĩ mô là thuyết cân bằng ngân sách (balanced budget). Theo đó, Nhà Nước cần giữ cân bằng chi thu của ngân sách quốc gia, để duy trì giá trị đồng tiền, tránh lạm phát, giá cả gia tăng quá nhanh, gây ra khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, phá sản, v.v… Ngay trước Đệ Nhị Thế Chiến, kinh tế nhiều nước Âu Châu đã bị lạm phát tàn phá, tiền phải chở cả xe mới mua được vài ổ bánh mì.
Sau Đệ Nhị Thế Chiến, xuất hiện tư tưởng được gọi là Keynesian, tức là quan điểm của kinh tế gia John Maynard Keynes của Anh thời đầu thế kỷ 20. Ông Keynes chủ trương một chính sách hoàn toàn trái ngược: chấp nhận thâm thủng ngân sách để phát triển kinh tế.


Đại cương ông Keynes chủ trương Nhà Nước phải đóng vai trò tích cực trong việc phát triển kinh tế và bảo đảm toàn dụng nhân lực qua việc can thiệp mạnh của Nhà Nước. Một mặt kiểm soát kinh tế bằng luật lệ chi phối mọi hoạt động kinh tế, mặt khác đóng vai trò tạo công ăn việc làm cho cả nước qua những dự án lớn. Nói nôm na ra là kinh tế được nuôi dưỡng bằng chi tiêu của Nhà Nước. Nhà Nước càng chi nhiều thì kinh tế càng phát triển. Những chi tiêu lớn lao này sẽ được tài trợ bằng thâm thủng ngân sách, mà ông Keynes cho rằng sẽ chỉ là chuyện nhất thời vì sau đó, kinh tế sẽ phát triển mạnh và với chính sách tăng thuế, số thuế thu vào sẽ gia tăng đủ để bù đắp những thâm thủng trước đó.
Thuyết này đã được cả thế giới áp dụng để gây dựng lại kinh tế toàn cầu sau những tàn phá của Đệ Nhị Thế Chiến, đặc biệt tại Âu Châu. Ta cũng nên nhớ sau Đệ Nhị Thế Chiến cũng là lúc các đảng thiên tả - nghĩa là xã hội và cộng sản - có ảnh hưởng rất mạnh tại Âu Châu. Sau đó thì lý thuyết Keynesian mất dần sự hấp dẫn, và thế giới, dưới ảnh hưởng của TT Reagan và bà Thủ Tướng Anh Thatcher, có huynh hướng trở về lại với thuyết cân bằng ngân sách và giảm thuế để khuyến khích khu vực tư tạo ra công ăn việc làm, chứ không trông cậy vào Nhà Nước để tạo việc làm nữa.
Nạn suy trầm kinh tế của những năm 1983-84, với thất nghiệp có lúc lên tới 10,7%, được TT Reagan mau mắn giải quyết với chính sách cắt giảm thuế quy mô thời đó, đưa đến một chu kỳ thịnh vượng kinh tế kéo dài tới 25 năm. Năm 2001, TT Bush lãnh gia tài suy trầm kinh tế gây ra bởi bong bóng “dot.com” xì hơi năm 2000, khiến thị trường chứng khoán rớt gần 40% cuối thời Clinton ngay trước vụ khủng bố. Vừa suy trầm vừa chiến tranh là họa vô đơn chí. Nhưng thay vì theo mô thức Obama là ngồi đổ thừa cho Clinton, TT Bush giảm thuế mạnh mẽ và kinh tế phục hồi mau chóng. Kinh tế phát triển dưới TT Bush từ cuối năm 2001 đến giữa năm 2008, với tỷ lệ thất nghiệp ở mức 4%-5%.
Nhưng cũng thời gian đó tại Âu Châu, thuyết Keynesian lại được phục hồi, với vài sửa đổi để trở thành thuyết “tân Keynesian” (neo-keynesian). Dù sao, ảnh hưởng của các chủ thuyết xã hội thiên tả vẫn còn rất mạnh bên Âu Châu.
Nhìn vào thành quả đạt được qua sự phục hồi kinh tế mau chóng của Âu Châu sau Đệ Nhị Thế Chiến, không ai phủ nhận được tính thực tiễn và hữu hiệu của lý thuyết Keynesian thời đó khi mà các phương tiện sản xuất đều chưa được tận dụng. Nhưng ngày nay, cũng nhìn qua tình trạng kinh tế chung của Âu Châu, thì người ta lại thấy lý thuyết của Keynes đã sai lầm hay lỗi thời, cho dù dưới hình thức đổi mới.
Hàng loạt các nước Âu Châu đang lâm tai họa khủng hoảng kinh tế như Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý, Pháp, Bỉ, v.v… Nguyên nhân của tai họa chính là những chi tiêu lớn lao của khu vực công, tạo ra thâm thủng ngân sách vĩ đại với những số nợ khổng lồ mà Nhà Nước không trả nổi cho dù mức thuế đã lên tới một nửa mức lương của thiên hạ. Cả khối Liên Âu bị đe dọa phá sản. Vì vậy, Liên Âu đang lo ban hành các biện pháp thắt lưng buộc bụng, cắt giảm chi tiêu Nhà Nước hàng loạt, đưa đến cắt giảm những chương trình bao cấp khổng lồ của Nhà Nước. Đó là luồng gió mới về tư tưởng kinh tế đang thổi vào Liên Âu.
Nhưng oái ăm thay, TT Obama lại là người lội ngược dòng.
Hội nghị thượng đỉnh khối 20 cường quốc kinh tế (G-20) tại Toronto vừa qua, tuy đạt được vài thành quả nhỏ mà thất bại lớn trên vấn đề đối phó với khủng khoảng kinh tế toàn cầu hiện nay. Trong khi tất cả 19 nước từ Âu Châu đến Nga, Trung Quốc và Nhật đều chủ trương thắt lưng buộc bụng để giảm chi tiêu của Nhà Nước, thì TT Obama lại đơn thân độc mã hô hào Nhà Nước tiếp tục kích cầu bằng các chương trình quốc doanh lớn lao. Nói cách khác, trong khi cả thế giới đang vật lộn với những tác hại của đường lối Keynesian thì TT Obama hô hào áp dụng chủ thuyết tân Keynesian, dùng tiền Nhà Nước để giải quyết mọi vấn đề. 
Quyết định của TT Obama khiến các chuyên gia kinh tế trên thế giới phân vân, dường như TT Obama là người của thế kỷ trước! Nhưng nó cũng phản ánh cá tính của ông. Nhất quyết dùng tiền Nhà Nước cải đổi xã hội về hướng tả, và tuyệt đối tin tưởng vào chính mình, bất chấp sự thật cả thế giới đang chứng kiến.
Chẳng những cả thế giới đang lo ngại về cuộc khủng hoảng của Âu Châu, mà còn đang run sợ trước viễn ảnh thâm thủng ngân sách và nợ hơn 10.000 tỷ của Mỹ, nhưng TT Obama vẫn bình chân như vại, tiếp tục tung hết tỷ này đến tỷ khác. Kế hoạch mới nhất là tung hai tỷ trợ cấp tạo việc làm trong khu vực năng lượng sạch (Grant for Clean Energy Jobs).
Xét cho cùng, vấn đề không phải là cần bao nhiêu trăm tỷ nữa mới giải quyết được nạn thất nghiệp và vượt qua được khủng hoảng kinh tế. Vấn đề là John Maynard Keynes đã chết từ hơn nửa thế kỷ rồi, và với sách lược kinh tế của TT Obama, có bỏ thêm bao nhiêu trăm hay ngàn tỷ nữa thì vẫn không phục hồi kinh tế và giải quyết nạn thất nghiệp được. Đó là cái nhìn của 19 nước trong khối G-20 khi họ nhất trí không đồng ý với TT Obama tung ra thêm vài gói kích cầu nữa. Chẳng qua chỉ vì ưu tư số một của TT Obama là cải đổi xã hội chứ không phải là phục hồi kinh tế và giải quyết thất nghiệp.
Tuần qua, Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang tiên đoán theo đà này, sẽ phải mất năm hay sáu năm mới phục hồi kinh tế được. Ngày Thứ Sáu cuối tuần, chỉ số tin tưởng vào tương lai kinh tế rớt xuống mức thấp nhất từ một năm nay. Thị trường chứng khoán Nữu Ước đáp ứng bằng cách rớt ngay 260 điểm trong ngày. Kinh tế đang lủng củng sẽ còn lủng củng dài dài.(18-07-10)
Quý độc giả có thể liên lạc với tác giả để góp ý qua email: [email protected]. Bài của tác giả được đăng mỗi Thứ Ba trên Việt Báo.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.