Hôm nay,  

Chậm Còn Hơn Không

17/11/200900:00:00(Xem: 5483)

Chậm còn hơn không

Trần Bình Nam
Quan hệ giữa Việt Nam và Trung quốc liên quan đến vùng Biển Đông, một vùng biển giới hạn phiá bắc bởi đảo Hải Nam, phía đông bởi Phi Luật Tân, phía tây bởi Việt Nam, phiá Nam bởi Singapore, Nam Dương, Mã Lai Á và Brunei trong đó có hai quần đảo Hòang Sa và Trường Sa là một vấn đề vẫn còn nhiều câu hỏi. Nhiều câu hỏi được dành cho Việt Nam.
Từ năm 1958 khi Trung quốc chính thức công bố bản đồ vùng Biển Đông (TBN: Trung quốc gọi là biển Nam Trung hoa và thế giới quen hiểu theo tiếng Anh là South China Sea) trong đó Trung quốc khoanh một khoảng lớn có hình như một cái lưỡi bò (TBN: từ đây sẽ gọi là vùng biển hình lưỡi bò) bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và nói thuộc chủ quyền của họ thì Việt Nam đã phản ứng một cách khó hiểu. Mãi đến ngày 10/11/2009 vừa qua chính quyền đảng cộng sản Việt Nam mới có thái độ tương đối rõ ràng và công khai.
Ngày 4/9/1958 Trung quốc ra thông cáo tuyên bố lãnh hải Trung quốc 12 hải lý thay vì 3 hải lý như vẫn được áp dụng (TBN: theo phong trào chung của nhiều nước trên thế giới), và đính kèm thông cáo là bản đồ vùng biển hình lưỡi bò như đã nói ở trên.
Lúc đó Việt Nam còn ở tình trạng chia đôi qua vĩ tuyến 17 bởi Hiệp định Geneva năm 1954. Tại miền Nam tổng thống Ngô Đình Diệm không đếm xỉa gì đến tuyên bố của Trung quốc vì Nam Việt Nam không có quan hệ ngoại giao với Trung quốc, mặt khác vì tính cách đòi chủ quyền một vùng biển của Trung quốc không có tính pháp lý.
Nhưng miền Bắc dưới quyền của chính phủ cộng sản do ông Hồ Chí Minh lãnh đạo đã đáp ứng công bố về chủ quyền lãnh hải của Trung quốc. Ngày 14/9/1958  thủ tướng Phạm Văn Đồng gởi công hàm công nhận và hứa tôn trọng tuyên bố lãnh hải mới của Trung quốc. Công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng không đá đông gì đến vùng biển hình lưỡi bò.
Điều này vẫn còn là một nghi vấn không biết ý của ông thủ tướng Phạm Văn Đồng như thế nào. Tuy thế dư luận cho rằng chính quyền miền Bắc qua công hàm 14/9/58 đã bán đứng Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung quốc. Và lẽ dĩ nhiên Trung quốc cũng “giả mù làm mưa” hiểu như vậy.
Tuy nhiên ông Nguyễn Mạnh Cầm nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, nhân buổi họp báo tại Hà Nội ngày 2 tháng 12 năm 1992 đã nói với Thông tấn xã Việt Nam và được phổ biến ngày 3 tháng 12 năm 1992 rằng: “Các nhà lãnh đạo của ta lúc trước xác nhận về Hoàng Sa và Trường Sa như vậy là do theo hiệp định Genève năm 1954 về vấn đề Đông Dương thì tất cả lãnh thổ từ vĩ tuyến thứ 17 trở vào Nam là thuộc chính quyền miền Nam, kể cả hai quần đảo này . (TBN: ý của ông Nguyễn Mạnh Cầm là có thuộc của chúng tôi mà bán hay không bán.)
Thêm vào đó, vào lúc ấy Việt Nam phải tập trung hết mọi lực lượng vào cuộc chiến chống Mỹ nên cần bạn bè khắp nơi. Tình hữu nghị Việt-Trung đang thắm thiết và hai nước hoàn toàn tin cậy lẫn nhau. Việt Nam xem Trung Quốc là một nguồn hỗ trợ to lớn và giá trị.
Trong tinh thần đấy thì do tình thế cấp bách, quan điểm của lãnh đạo ta là cần thiết vì nó phục vụ cho cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc.
Đặc biệt, việc này còn nhắm vào nhu cầu cấp thiết lúc đó là ngăn ngừa đế quốc Mỹ không sử dụng các quần đảo đó để tấn công chúng ta. Việc lãnh đạo ta tạm công nhận như thế với Trung Quốc không có can hệ gì đến chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cả.”
Như vậy về mặt thực tế cũng như pháp lý công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng không thể hiểu là văn kiện Hà Nội công nhận vùng biển hình lưỡi bò là của Trung quốc.
Thực tế là từ năm 1991 sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ, mặc dù quan hệ giữa Việt Nam và Trung quốc rất tốt đẹp và Việt Nam bị lệ thuộc vào Trung quốc về mặt kinh tế cũng như chính trị một cách nặng nề, Việt Nam vẫn luôn khẳng định bằng lời hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Bằng lời là vậy nhưng Hà Nội chưa bao giờ công bố lập trường của mình đối với vùng biển hình lưỡi bò một cách chính thức trước quốc tế bằng văn bản.
Hôm 10/11/2009 nhân Ban Tuyên Giáo Trung ương đảng cộng sản Việt Nam triệu tập “Hội nghị tuyên truyền biển đảo và phân giới cắm mốc” có tính nội bộ do Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Phạm Văn Linh chủ tọa, một bản tin do VietnamNet một cơ sở thông tin “online” của chính quyền Hà Nội phổ biến tiết lộ rằng trong tháng 5/2009 Việt Nam đã gởi văn thư đến Ủy ban Ranh Giới thềm Lục địa Liên hiệp quốc bác bỏ yêu sách vùng biển hình lưỡi bò của Trung quốc.


Văn kiện phản bác của Việt Nam gởi Liên hiệp quốc ngày 8/5/2009 sau khi Việt Nam và Mã Lai Á chính thức gởi hai báo cáo quốc gia, một của Việt Nam (VNM-N) và một viết chung với Mã Lai Á (MYS-VNM) đến Ủy ban Ranh Giới thềm Lục địa Liên hiệp quốc xác định ranh giới thềm lục địa Việt Nam đồng thời khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (TBN: xem tài liệu “Chung quanh vấn đề Việt Nam đăng ký thềm lục địa ngoại biên” số 311 www.tranbinhnam.com) và bị Trung quốc phản đối.
Bản tin VietnamNet viết: “Sau khi Việt Nam nộp Báo cáo thềm lục địa ra Liên hiệp quốc, phái đoàn thường trực của Trung quốc tại Liên hiệp quốc đã gởi các công hàm đến ông Tổng thư ký  Liên hiệp quốc phản đối hai báo cáo trên và yêu cầu Ủy ban Ranh Giới thềm Lục địa Liên hiệp quốc không xem xét báo cáo chung (MYS-VNM) và báo cáo khu vực phía Bắc (VNM-N) của Việt Nam và đồng thời và cũng là lần đầu tiên chính thức khẳng định yêu sách vùng biển hình lưỡi bò trên Biển Đông.
Bản tin VietnamNet viết tiếp: “Phái đoàn Việt Nam tại Liên hiệp quốc đã gởi công hàm phản đối công hàm của phía Trung quốc, khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bác bỏ yêu sách vùng biển hình lưỡi bò, coi đây là yêu sách phi lý, không có cơ sở pháp lý, lịch sử và thực tiễn”. 
Như vậy, về đảo, qua Báo cáo quốc gia trình Ủy ban Ranh Giới thềm Lục địa Liên hiệp quốc, Việt Nam đã chính thức tuyên bố trước thế giới bằng văn bản rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Và về biển qua văn thư gởi Liên hiệp quốc ngày 8/5/2009 Việt Nam đã bằng văn bản bác bỏ yêu sách vùng biển hình lưỡi bò trên Biển Đông của Trung quốc. Một điểm đáng lưu tâm là trong tháng 5/2009 Việt Nam đã không tiết lộ rằng Việt Nam đã gởi công hàm phản bác sự đòi hỏi chủ quyền Biển Đông của Trung quốc .
Việt Nam hoặc quá nể Trung quốc hoặc quá tế nhị về ngoại giao nên không công khai tiết lộ lập trường của Việt Nam đối với vùng biển hình lưỡi bò, hồi tháng 5/2009 vừa qua. Chờ cho đến ngày 10/11/2009 vừa qua mới công bố .
Trễ 6 tháng! Nhưng trễ còn hơn không.
Chuyến công du Á châu của tổng thống Obama  từ ngày 13 đến ngày 17/11 cho thấy Hoa Kỳ dù bận tay đối phó với các vấn đề cấp thiết khác như chiến tranh Iraq, Afghanistan, vấn đề Iran đang chế tạo vũ khí nguyên tử và cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Hoa Kỳ cũng không quên vai trò của mình tại Á châu là cân bằng quyền lực với lực lượng đang lên của Trung quốc.
Khó nói được chuyến đi của tổng thống Obama có ảnh hưởng gì đến thái độ mới của Việt Nam đối với Trung quốc không. Nhưng nếu có cũng không thay đổi được gì tư thế của Việt Nam trong cuộc tranh chấp biển đảo với Trung quốc nếu chính quyền đảng cộng sản Việt Nam chưa phát huy nội lực của toàn dân.
Bài học của tiền nhân là sống cạnh nước lớn, chúng ta phải khiêm nhường và khéo léo để tồn tại. Vua Lê Lợi giết Liễu Thăng giành được độc lập vẫn phải làm một Liễu Thăng bằng vàng để triều cống Trung quốc. Vua Quang Trung sau khi đánh tan 10 vạn quân của Tôn Sĩ Nghị vẫn phải xin Bắc Triều phong vương. Nhưng vua Lê Lợi cũng như vua Quang Trung đều cho người Trung Hoa hiểu rằng nếu Trung quốc còn manh tâm xâm chiếm Việt Nam họ sẽ bị đánh tan. Tiền nhân đã chứng tỏ Việt Nam nhún nhường phận nước nhỏ nhưng không hèn nhát.
Việt Nam hôm nay đứng trước một thử thách lịch sử là lại đứng trước người khổng lồ phương Bắc đang triển khai sức mạnh với tâm lý nước lớn ngàn đời không thay đổi. Và sự đe doạ lần này có vẻ nghiêm trọng hơn bất cứ sự đe doạ nào trong 2000 năm qua.
Nhưng Việt Nam không phải không có lối để tồn tại như một quốc gia độc lập. Ngoài nội lực phong phú của dân tộc, khung cảnh toàn cầu liên đới quyền lợi cũng là một vũ khí của chúng ta.
Biết khai thác thế nhân dân, biết khai dụng thế liên kết thế gìới vì quyền lợi hỗ tương, Việt Nam còn có rất nhiều đường để thoát hiểm.
Nhiều người cho rằng đảng cộng sản Việt Nam đã để cho Trung quốc bắt nạt quá lố và quá trễ để còn có thể phản ứng tự vệ.
Nhưng cứ nên xem bát nước đầy một nửa và … trễ còn hơn không.
Trần Bình Nam
Nov. 16, 2009
[email protected]
www.tranbinhnam.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Kể từ khi tổ chức khủng bố Hamas tấn công vào Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023, các vụ xung đột đẫm máu xảy tại Dải Gaza cho đến nay vẫn chưa kết thúc. Nhưng gần đây, cộng đồng quốc tế còn tỏ ra lo ngại nhiều hơn khi giao tranh giữa Israel và lực lượng dân quân Hezbollah ở Lebanon đang gia tăng. Bằng chứng là sau cái chết của thủ lĩnh Hamas Ismail Haniya và thủ lĩnh Hezbollah Hassan Nasrallah, tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Trong vài tháng qua, người dân Mỹ, dù muốn hay không muốn, cũng đã có nhiều cơ hội để nhìn về một bức tranh mà trong đó có quá nhiều sự tương phản. Những mảnh ghép từ hai tầm nhìn, hai chiến lược, hai mục đích hoàn toàn khác biệt đã dần dần rơi xuống, để lộ ra hai con đường hoàn toàn khác biệt cho người Mỹ lựa chọn. Dù có một bức màn đã rơi xuống (như nữ hoàng Oprah Winfrey đã ví von) cho một thuyền trưởng bước ra, trao lại cho người dân sự hy vọng, lòng tin, trách nhiệm, thì sâu thẳm bên trong chúng ta vẫn muốn biết, những giá trị thực của một triều đại đã mang lại. Từ đó, niềm tin sẽ được củng cố.
Bi hài kịch “ngoại giao cây tre”, với hoạt cảnh mới nhất là “cưỡng bức đặc xá”, đã giúp chúng ta nhận ra rằng, dẫu khác nhau nước lửa, “phóng sinh” và “hiến tế” vẫn có thể hội tụ ở ý nghĩa “triều cống” khi phải chiều lòng hai cường quốc ở hai đầu mút của hai hệ tư tưởng trái ngược nhau. Để đẹp lòng bên này thì phải nhẫn tâm “hiến tế”, mà để làm hài lòng bên kia thì phải diễn tuồng “phóng sinh” để có một dáng dấp khai phóng, cởi mở. “Chiến lược ngoại giao” này, phải chăng, là một trò chơi “ăn bù thua” mà, diễn đạt bằng ngôn ngữ toán học của Game Theory, là có tổng bằng không?
Trận Điện Biên Phủ kết thúc vào hôm 7 tháng 5 năm 1954. Bẩy mươi năm đã qua nhưng dư âm chiến thắng, nghe chừng, vẫn còn âm vang khắp chốn. Tại một góc phố, ở Hà Nội, có bảng tên đường Điện Biên Phủ – cùng với đôi dòng chú thích đính kèm – ghi rõ nét tự hào và hãnh diện: “Tên địa danh thuộc tỉnh Lai Châu, nơi diễn ra trận đánh quyết liệt của quân và dân ta tiêu diệt tập đoàn cứ điểm thực dân Pháp kéo dài 55 ngày đêm”.
JD Vance đã chứng tỏ một “đẳng cấp” khác, rất “Yale Law School” so với thương gia bán kinh thánh, giày vàng, đồng hồ vàng, Donald Trump. Rõ ràng, về phong cách, JD Vance đã tỏ ra lịch sự, tự tin – điều mà khi khởi đầu, Thống đốc Walz chưa làm được. Vance đã đạt đến “đỉnh” của mục tiêu ông ta muốn: lý trí, ôn hoà, tỉnh táo hơn Donald Trump. “Đẳng cấp” này đã làm cho Thống Đốc Tim Walz, người từng thẳng thắn tự nhận “không giỏi tranh luận” phải vài lần phải trợn mắt, bối rối trong 90 phút. Cho dù hầu như trong tất cả câu hỏi, ông đã làm rất tốt trong việc phản biện lại những lời nói dối của JD Vance, đặc biệt là câu chất vất hạ gục đối thủ ở phút cuối: “Trump đã thua trong cuộc bầu cử 2020 đúng không?” JD Vance đáp lại câu hỏi này của Tim Walz bằng hàng loạt câu trả lời né tránh và phủ nhận sự thật. Và dĩ nhiên, rất “slick.” “Trump đã chuyển giao quyền lực rất ôn hoà.” Cả thế giới có thể luận bàn về sự thật trong câu trả lời này.
Phải nhìn nhận rằng chuyến đi đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đến Mỹ đã được giới chức ngoại giao Việt Nam thu xếp để ông gặp được nhiều lãnh đạo, xem như xã giao ra mắt để hợp tác, hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lãnh vực trong tương lai. Bài diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc chỉ lặp lại các chính sách đối ngoại của Hà Nội, nên không được truyền thông quốc tế chú ý nhiều như các diễn văn của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky và Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu, là đại diện cho những quốc gia trực tiếp liên can đến các xung đột ở Trung Đông, ở Ukraine mà có nguy cơ lan rộng ra thế giới. Ông Lâm mới lên làm chủ tịch nước kiêm tổng bí thư Đảng Cộng sản được vài tháng, sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời, nên ông muốn dịp đến Liên Hiệp Quốc là dịp để thể hiện vai trò lãnh đạo của mình và nhấn mạnh đến chính sách ngoại giao du dây của Hà Nội.
Sự bất mãn lan rộng với các hệ thống thuộc chủ nghĩa tư bản hiện tại đã khiến nhiều quốc gia, giàu và nghèo, tìm kiếm các mô hình kinh tế mới. Những người bảo vệ nguyên trạng tiếp tục coi Hoa Kỳ là một ngôi sao sáng, nền kinh tế của nước này vượt xa châu Âu và Nhật Bản, các thị trường tài chính của nước này vẫn chiếm ưu thế hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, công dân của nước này cũng bi quan như bất kỳ công dân nào ở phương Tây.
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.