Hôm nay,  

Đổi Mới Công Đoàn

04/08/200500:00:00(Xem: 12368)
Trong tuần qua, một biến cố hy hữu đã xảy ra tại Hoa Kỳ, đó là sự rạn nứt trong hệ thống công đoàn của một quốc gia tư bản nhất thế giới.
Diễn đàn Kinh tế đài RFA tìm hiểu về hiện tượng này qua phần trao đổi sau đây cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa trong tiết mục chuyên đề hàng tuần do Nguyễn An thực hiện.

Hỏi: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, tại đại hội hàng năm của công đoàn AFL-CIO tại Mỹ, hôm Thứ Hai tuần qua, một số công đoàn lớn không đến tham dự và dư luận nói đến sự vỡ đôi của phong trào công đoàn tại Hoa Kỳ. Chúng tôi xin đề nghị kỳ này ta sẽ đặc biệt đề cập đến hiện tượng ấy, đúng 50 năm sau khi phong trào này được thống nhất.
Thưa vâng, đây là một biến cố đáng chú ý vì tiêu biểu cho rất nhiều đổi thay trong quan hệ sản xuất và sinh hoạt của một quốc gia tiên tiến, nơi mà quyền lợi của lao động cũng được bảo vệ chặt chẽ nhất. Những gì đang xảy ra tại Hoa Kỳ có thể giúp nhiều thành phần xã hội tại Việt Nam nhìn ra mục tiêu, quyền lợi và chiến lược hành động của mình.

Nguyên nhân của sự rạn nứt

Hỏi: Để bắt đầu, xin ông trình bày cho thính giả rõ bối cảnh của vấn đề, trước khi ta nói đến nguyên nhân vì sao lại có sự rạn nứt trong phong trào công đoàn.
-- Sự rạn nứt hay sự đổi mới, hay chiều hướng canh tân tốt đẹp hơn, chúng ta chưa biết được. Nhưng, nói chung, khi có sự thay đổi công khai với những lý do trình bày minh bạch thì trước tiên, những người trong cuộc, ở đây là lực lượng lao động, có cơ hội phán xét và chọn lựa.
Về bối cảnh thì đúng 50 năm trước vào tuần này, hai công đoàn lớn nhất Hoa Kỳ đã thống hợp làm một, với tên kép là AFL-CIO. Đó là American Federation of Labor, Liên đoàn Lao động Hoa Kỳ, và Congress of Industrial Organizations, Nghị hội các Cơ sở Công nghiệp. Như trong nhiều tiền lệ khác của lịch sử, đại thắng lợi cũng báo hiệu sự suy sụp. Vì kể từ đấy số công nhân viên tham gia nghiệp đoàn, cụ thể là ghi danh nộp tiền cho công đoàn, đã liên tục sút giảm, từ gần phần ba lực lượng lao động nay chỉ còn 12,5%. Riêng trong khu vực tư doanh, tỷ lệ suy sụp còn lớn hơn: trong 100 người, chưa có tới tám người là thành viên công đoàn.
Hỏi: Thưa ông, có những nguyên nhân gì giải thích hiện tượng ấy"
-- Nguyên nhân đầu tiên mà chính lãnh tụ các công đoàn có khi đã không nhìn ra, đó là họ đã đạt thắng lợi trong việc tranh đấu cho quyền lợi của người làm thuê, cho những ai phải đem bán sức lao động của mình để kiếm sống, đến độ mức sống mọi người đều được cải thiện, dù sinh hoạt công đoàn hay không.
Nguyên nhân thứ hai tiềm ẩn bên dưới là đà tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội trong nhiều thập niên liên tục sau chiến tranh chẳng những nâng cao mức sống và phẩm chất cuộc sống lẫn hệ thống luật lệ bảo vệ quyền lợi của mọi người mà còn đẩy nền kinh tế qua một trạng thái phát triển khác, cụ thể nhất là hiện tượng toàn cầu hóa hay tự do hóa trao đổi kinh tế.
Hiện tượng ấy thay đổi luôn quan hệ kinh tế giữa các nước và bên trong xã hội, giữa các thành phần dân chúng với nhau, giữa công dân và nhà nước, nhà tiêu thụ và nhà sản xuất, người làm thuê và làm chủ, giữa công đoàn với giới lãnh đạo chính trị.

Hiện tượng toàn cầu hóa

Hỏi: Đấy là những nguyên nhân chung, ông có thể nêu rõ vài thí dụ về hiện tượng ấy chăng"
-- Một thí dụ rõ nhất là phát triển kinh tế làm thay đổi cơ cấu sản xuất, khiến tỷ trọng đóng góp của khu vực chế biến công nghiệp sút giảm trong khi khu vực cung cấp dịch vụ lại gia tăng.
Sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất ấy khiến nghiệp đoàn công nhân ngành thép mất 10 vạn đoàn viên từ năm 1998 đến nay trong khi số đoàn viên của một công đoàn cầm đầu phe "đổi mới", hay nổi loạn là Liên hiệp Quốc tế Nhân viên Dịch vụ - Service Employees International Union, SEIU - lại tăng gần gấp ba, từ 625.000 lên một triệu tám từ năm 1980 đến nay, trong đó có năm vạn nhân viên Canada vì, như danh xưng và xu hướng, đây là công đoàn quốc tế.
Nói chung, số đoàn viên trong khu vực chế biến sút giảm nặng, số đoàn viên là công chức thì ít thay đổi, số đoàn viên trong khu vực dịch cụ thì tăng, và lập trường của các thành phần ấy thay đổi dần với vị trí của họ, mà lãnh đạo không thỏa mãn nên mới có nổi loạn.

Sự rạn nứt trầm trọng

Hỏi: Bây giờ, ta bước qua phần mô tả sự rạn nứt ấy, thưa ông, nó trầm trọng đến mức nào"
-- Hai công đoàn mạnh nhất Liên đoàn AFL-CIO là SEIU và Huynh đệ Quốc tế Công nhân Vận tải là International Brotherhood of Teamsters đã bước ra với hơn ba triệu đoàn viên, kế tiếp là năm công đoàn khác. Tổng cộng họ đại diện cho sáu triệu trong tổng số 13 triệu đoàn viên. Có nói là phong trào bị vỡ đôi cũng không quá.
Đó là về nhân số; về tiền bạc chung góp thì hai công đoàn ly khai đóng góp 20 triệu cho ngân sách hoạt động của Liên đoàn AFL-CIO và họ không đồng ý với cách dùng tiền vận động của Liên đoàn. Quan trọng hơn cả, bảy công đoàn ly khai đã lập chương trình hành động chung gọi là "Thay đổi để Chiến thắng", Change to Win, gọi tắt là CTW.


Họ phê phán lãnh đạo của Liên đoàn là ngang ngược và thất bại trước đổi thay của xã hội, còn trở thành "máy phát tiền tự động cho đảng Dân chủ" trong khi ít phát triển thêm đoàn viên và đấu tranh cụ thể với doanh nghiệp cho quyền lợi của nghiệp đoàn.

Đóng góp tiền cho cuộc bầu cử

Hỏi: Ông phân tách thế nào về sự rạn nứt trầm trọng này"
-- Nhỏ là chuyện tranh chấp về lãnh đạo giữa Chủ tịch John Sweeney của Liên đoàn AFL-CIO với hai lãnh tụ Andrew Stern của công đoàn SEIU và James Hoffa của đoàn Teamsters. Từ khi lên cầm quyền năm 1995, ông Sweeney đã khiến Liên đoàn mất gần một triệu đoàn viên và năm đó là năm mà đảng Cộng hòa vừa đại thắng tại Hạ viện nên Liên đoàn có xu hướng tập trung vận động cho đảng Dân chủ, với quan niệm là đảng này mà lãnh đạo cả Hành pháp lẫn Lập pháp, trong lưỡng viện của Quốc hội, thì quyền lợi đoàn viên sẽ được bảo vệ.
Năm ngoái, Liên đoàn tung 44 triệu ủng hộ ứng viên Tổng thống của đảng Dân chủ và năm nay dự trù tăng chi đến 60 triệu cho yêu cầu vận động chính trị như vậy. Ngược lại, phe đổi mới đòi hỏi dồn ưu tiên vào việc phát triển số đoàn viên và tập trung tranh đấu trong các doanh nghiệp, thí dụ ở đây là hệ thống bán lẻ Wal-Mart, và trên một phạm vi quốc tế rộng lớn hơn.
Hỏi: Ông vừa đề cập đến một vấn đề có thể là rất lạ cho thính giả ở xa. Một công đoàn dồn tiền cho một phe trong bầu cử. Ông có thể giải thích rõ hơn hiện tượng này hay không"
-- Ngược với lối suy nghĩ của nhiều người, công đoàn tại Mỹ không là công cụ của nhà nước hay của một đảng và thực ra có rất nhiều quyền tự trị và độc lập trong khuôn khổ một liên đoàn.
Từ nhiều năm qua, Liên đoàn AFL-CIO có thể thiên về đảng Dân chủ hơn là đảng Cộng hòa nhưng vấn đề của họ là trong từng lãnh vực quan tâm, đảng nào đáp ứng quyền lợi đoàn viên thì họ ủng hộ.
Việc Tổng thống Bush tái đắc cử năm ngoái và đảng Cộng hòa đại thắng trong ba cuộc bầu cử Quốc hội vừa qua, trong các năm 2000, 2002 và 2004, khiến họ phải cân nhắc lợi hại và một số công đoàn mới phản đối chủ trương của Liên đoàn là quá chú ý đến tác động vào chính trường và dồn hậu thuẫn cho đảng Dân chủ.

Quan niệm về chủ nghĩa Marx

Hỏi: Trước khi tìm hiểu về các chủ trương mới, xin ông nói thêm chi tiết mà nhiều người ở Việt Nam muốn rõ: công đoàn Mỹ quan niệm thế nào về đấu tranh giai cấp hay chủ nghĩa Marx"
-- Hơn trăm năm trước, lãnh tụ nghiệp đoàn tại Mỹ thực sự là công nhân tự phát đấu tranh cho quyền lợi công nhân, và họ có thể có cảm tình với lý luận của Marx, như trường hợp của một lãnh tụ nổi tiếng là Samuel Gompers, là công nhân vấn thuốc trong một hãng làm xì gà.
Nhưng, họ là dân lao động, gọi là thành phần áo lam, họ nghĩ đến việc thiết thực của tình liên đới và quyền lợi công đoàn, chứ không là thành phần trung lưu tư sản muốn trừu tượng làm cách mạng vô sản hay cải tạo cả xã hội để cải thiện cuộc sống công nhân. Hai lãnh tụ nổi tiếng của Liên đoàn AFL-CIO là Georges Meany - xuất thân là thợ ống nước - rồi Lane Kirkland còn là những khuôn mặt chống cộng, vì cho rằng quyền lợi công nhân bị các chế độ cộng sản chà đạp. Cũng vì tình liên đới thiết thực, ông Kirkland này đã tích cực vận động đoàn viên Mỹ ủng hộ cuộc đấu tranh của công đoàn Đoàn kết Ba Lan cách đây hơn hai chục năm.
Ngày nay, nhiều lãnh tụ nghiệp đoàn Mỹ có thể là dân có học, đấu tranh chuyên nghiệp về chính trị, tả khuynh nhưng xa dần vấn đề quyền lợi thiết thực của công nhân nên mới có vụ nổi loạn chúng ta đang thấy.

Ảnh hưởng và hậu quả

Hỏi: Trở lại xu hướng đang đòi canh tân nghiệp đoàn tại Mỹ, ông nghĩ sao về ảnh hưởng và hậu quả của biến cố này"
-- Đây là thất lợi lớn cho đảng Dân chủ vì sự ủng hộ của công đoàn, như tiền tranh cử và nhân sự đi vận động, hết là một lợi thế đương nhiên. Người ta sẽ thấy ngay điều ấy trong năm tới là một năm tranh cử bán phần.
Nhìn xa hơn, chiến lược công đoàn từ nay sẽ bớt tập trung vào việc tác động vào chính quyền và chính sách, và cả hai đảng Cộng hòa lẫn Dân chủ sẽ phải thi đua để thỏa mãn hai xu hướng công đoàn đang cạnh tranh với nhau, nên chưa chắc là đảng Cộng hòa sẽ đương nhiên có lợi.
Thứ nữa, xu hướng toàn cầu hóa, hạ thấp chướng ngại về ngoại thương và phát triển kinh tế thị trường là tất yếu, không thể đảo ngược, nên Hoa Kỳ cũng phải thay đổi và công đoàn mất dần ưu thế đã có. Vì vậy, họ phải yểm trợ công nhân viên tự cải tiến và thăng tiến tay nghề theo trào lưu mới. Khuynh hướng bảo hộ mậu dịch, chống toàn cầu hóa, chống các doanh nghiệp đặt làm gia công ở nước ngoài cũng mất khí thế và điều ấy thực ra có lợi cho doanh nghiệp và công nhân viên Việt Nam trong mối quan hệ mậu dịch với Mỹ.
Trong lãnh vực nghiệp đoàn thực tế, công đoàn sẽ phải đi theo trào lưu tản quyền, bớt lệ thuộc vào một bộ máy lãnh đạo thống nhất và vào cách vận động tập trung vào chính sách của nhà nước mà, để đạt những thỏa thuận có lợi cho đoàn viên, họ sẽ đấu tranh cụ thể với từng doanh nghiệp, từng ngành nghề, với các cổ đông và chủ đầu tư, và đấu tranh trên cả phương vị quốc tế vì doanh nghiệp nay đã quốc tế hoá. Điều ấy sẽ ảnh hưởng đến nhiều xứ khác chứ không riêng gì cho giới chính trị Mỹ. Và điều ấy thực ra cũng có lợi cho giới tiêu thụ.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cuộc khủng hoảng do virút corona đang tạo ra một môi trường toàn cầu nhiều cạnh tranh hơn, với sự "đối đầu" phát triển nhanh hơn là "hợp tác". Liên Minh Âu Châu chúng ta phải đối mặt với những vùng biển khắc nghiệt hơn và có nguy cơ bị cuốn vào những dòng chảy chéo chiều của các cường quốc đang đòi chúng ta chọn phe rõ rệt. Những thứ được coi là kỹ thuật và không phải là "chính trị cao", chẳng hạn như đầu tư và thương mại, công nghệ và tiền tệ, nay là thành phần của một cuộc cạnh tranh công khai, hoặc thậm chí là đối đầu. Những thứ mà người ta có thể dựa vào một cách vững chắc, như dữ kiện và khoa học, hiện đang bị thách thức và cuốn vào trận chiến của những bài tường thuật, khuếch đại thêm qua những phương tiện truyền thông xã hội.
Câu hỏi đang đặt ra ở Biển Đông là Trung Quốc có âm mưu gì khi bất ngờ gia tăng đe dọa và phủ nhận quyền chủ quyền của các nước có tranh chấp lãnh thổ với Bắc Kinh gồm Việt Nam, Phi Luật Tân, Nam Dương, Mã Lai và Brunei, vào lúc cả thế giới lo phòng, chống dịch nạn Vũ Hán, xuất phát từ Trung Quốc từ đầu năm 2020 (Coronavirus disease 2019 (COVID-19). Để trả lời cho thắc mắc này, cũng như liệu tranh chấp giữa Mỹ và Trung Quốc ở Biển Đông có đưa đên nguy cơ chiến tranh hay không, xin mời bạn đọc theo dõi nội dung Cuộc phỏng vấn của tôi với Giáo sư ngoại hạng (Professor Emeritus), Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng, người từng giảng dậy nhiều năm về Quan hệ Quốc tế tại Đại học George Mason, gần Thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Giáo sư Hùng là Học giả cao cấp bất thường trú của Trung tâm nghiên cứu Chiến lươc và quan hệ Quốc tế ở Washington, D.C. (Center for Strategic and International Studies, CSIS). Ngoài ra ông còn là Học giả vãng lai hai niên khóa 2015-2016 tại viện nghiên cứu nổi tiếng ISEAS-Yusof Is
Sau khi ông George Floyd bị chết dưới bạo lực cảnh sát, một phong trào biểu tình chống kỳ thị người da đen đã bùng nổ và lan rộng khắp nước Mỹ và trên thế giới. Phong trào có sự tham gia của mọi tầng lớp, của nhiều sắc tộc khác nhau, trong đó có người Việt Nam. Sự kiện này đã dẫn đến nhiều mâu thuẫn trong tập thể người Việt, do cách nhìn trái chiều về vấn đề kỳ thị chủng tộc đối với người da đen và phong trào Black Lives Matter. Đặc biệt là giữa thế hệ trẻ và thế hệ những người lớn tuổi trong cộng đồng. Là một tổ chức đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền Việt Nam, với chủ trương Đấu tranh bất bạo động, đảng Việt Tân đã từng lên tiếng ủng hộ các phong trào biểu tình của người dân như ở Hong Kong. Chúng tôi có cuộc phỏng vấn với ông Hoàng Tứ Duy, Phát ngôn nhân Đảng Việt Tân, về nhận xét của ông đối với phong trào Black Lives Matter và sự tham gia của giới trẻ Việt Nam trong các cuộc xuống đường đòi công lý cho người Mỹ da đen.
Trong khi tham vọng kiểm soát của chế độ toàn trị vẫn như cũ, có một số khác biệt giữa những nỗ lực của Mao và Tập Cận Bình. “Tư tưởng của Tập Cận Bình là một thay thế nhạt màu cho Sách Đỏ của Mao. Tập Cận Bình đã không thể đưa ra một ý thức hệ mạch lạc để truyền cảm hứng cho sự cuồng tín trong những người theo ông, khác một chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc chung chung. Mặt khác, Tập có các công cụ công nghệ khả dụng mà đơn giản là không áp dụng cho những nhà độc tài trong thế kỷ 20. Hệ thống tín dụng xã hội kết hợp tất cả các phương pháp của thông minh nhân tạo, dữ liệu quy mô, cảm biến lan tỏa và đặt các phương tiện này vào trong tay nhà nước Trung Quốc. Cả Stalin và Mao đều không thể kiểm soát trực tiếp các phong trào hàng ngày, lời nói và giao dịch của từng đối tượng theo cách mà đảng Trung Quốc về mặt lý thuyết có thể làm ngày nay.
Một dự luật đã được đưa ra Quốc Hội Nhân Dân của Đảng Cộng Sản Trung Hoa (CSTH) ngày 22 tháng 5 năm 2020 tại Bắc Kinh, và đúng một tuần lễ sau, dự luật này đã được nhanh chóng thông qua vả trở thành Đạo Luật An Ninh Quốc Gia (ĐLANQG) về Hồng Kông vào ngày 29 tháng 5. Khi đưa ra Quốc Hội Nhân Dân để bàn thảo và thông qua, dự luật này gồm 7 điểm chính, trong đó ba điểm quan trọng nhất để đối phó và triệt hạ quyền tự chủ cùa Hồng Kông là điều số 2, số 4, và số 6. Theo đó, Bắc Kinh sẽ ngăn chặn tất cả các nguồn yểm trợ từ bên ngoài vào Hồng Kông; sẽ sử dụng được các lực lượng đàn áp từ Bắc Kinh để dập tắt các cuộc biểu tình, những người tham dự biểu tình có thể quy tội phản quốc, ly khai; và từ đó Bắc Kinh sẽ khai triển ra những đạo luật khác để thực hiện các mưu đồ trên.
Đảng Cộng Sản Việt Nam có truyền thống bán nước từ Hồ Chí Minh cho đến ngày nay. Người bán nước số một là Nguyễn Phú Trọng, bán nước một cách tinh vi, từ những bí mật nầy đến những bí mật khác để lừa bịp nhân dân. Đã đặt Việt Nam lệ thuộc vào Trung Cộng, xem như thời kỳ Bắc thuộc lần thứ năm. Tuổi tác đã cao, sức khỏe yếu kém mà muốn ôm cái ghế quyền lực suốt đời. Thủ hạ Nguyễn Hồng Diên thăm dò dư luận bằng những lời lẽ nâng bi quá đáng, làm phản tác dụng, gây phẩn nộ trong quần chúng. Tóm lại, Nguyễn Phú Trọng và đảng của ông đã đặt Việt Nam lệ thuộc vào Trung Cộng, đó là tội đồ của dân tộc.
Khi còn trẻ, đôi lúc, tôi cũng (thoáng) có ý định sẽ trở thành một người cầm bút. Ở một xứ sở mà phần lớn người ta đều cầm cuốc, cầm búa, cầm kìm hay cầm súng… mà định cầm viết thì quả là một chuyện khá viển vông – nếu không muốn nói là hơi xa xỉ. Lúc không còn trẻ (nữa) tôi mới ngộ ra rằng: bút viết nó chọn người, chứ không phải là ngược lại – trừ khi mình cứ cầm đại thì không kể. Tôi không được (hay bị) lựa và cũng không có máu liều – như phần lớn quí vị trong Hội Nhà Văn Việt Nam Đương Đại – nên chuyện viết lách kể như … trớt quớt!
Nuôi dưỡng nền dân chủ giống như kẻ trồng cây: khi còn là hạt giống phải chống đỡ quạ tha gà mổ; cây còn non trẻ cần ngăn ngừa sâu bọ; đến lúc trưởng thành già nua phải chặt bớt những cành lớn không thì một cơn bão lớn sẽ làm đổ ngã thân cây. Việt Nam chưa có dân chủ nên tranh đấu đòi dân chủ. Nền dân chủ non trẻ tại Phi Luật Tân bị đe dọa trở lại độc tài. Dân chủ ở Mỹ trưởng thành lâu đời nay lại nảy sinh ra dấu hiệu già nua thoái hóa thành một hình dạng gì chưa nhận biết được.
Xét về cao độ thì Sơn Núi (Nguyễn Đức Sơn) ở thấp hơn nhiều bạn đồng nghiệp của mình – như Bùi Minh Quốc, Hà Sĩ Phu, Mai Thái Lĩnh, Tiêu Dao Bảo Cự… – xa lắc. Những nhân vật này đều có thời là biên tập viên của tạp chí Lang Biang, tờ báo (đã bị đóng cửa) này lấy tên theo vùng cao nguyên lâm Viên mà họ đang sinh sống. Đỉnh Lâm Viên, ở Đà Lạt, cao hơn hai ngàn mét lận. Từ đây, muốn leo lên trời (để đái, hay làm gì tùy thích) còn tiện hơn nhiều. Ngoài lợi thế nhỏ nhặt này ra, những cư dân ở miền sơn cước gặp phải toàn là những điều (vô cùng) bất tiện. Họ xa cách (mịt mù) với thế giới văn minh, ở những đô thị miền xuôi. Tôm cá hì hục chở lên đến được đến cao nguyên (thường) đã bị ươn, và thông tin khi nhận được thì (ôi thôi) hoàn toàn đã cũ.
Giữa mùa đại dịch COVID-19, tại những buổi tường trình mỗi ngày, Tổng thống Mỹ Donald Trump và Phó Tổng thống Mike Pence không ngớt tiên đoán sự lớn mạnh vượt bực của kinh tế quốc gia Hoa Kỳ sau khi tình hình dịch tễ lắng đọng. Hai ông nhấn mạnh rằng kinh tế Mỹ hậu-COVID-19 sẽ tìm lại thế quân bằng sau những chao đảo khiếp hãi khiến cả 40 triệu nhân công thất nghiệp trong vòng vỏn vẹn ba tháng trời. Đầu tháng Sáu, hy vọng bắt đầu le lói khi guồng máy kinh tế rục rịch mở cửa lại, ai nấy trông đợi ánh sáng tỏa lớn cuối đường hầm.Tuy nhiên, mặc dù người ta có quyền hy vọng vào sự thịnh vượng chung, nhưng sự thật là đối với các thành phần ít may mắn hơn trong xã hội (vâng, phần đông trong đó là những sắc dân da màu thiểu số), khó khăn kinh tế gần như là một điều chắc chắn. Ai cũng tưởng sau khi COVID-19 giáng một đòn chí tử lên kinh tế Hoa Kỳ, thì khoảng cách chênh lệch giữa hai thành phần giàu-nghèo sẽ phần nào thu hẹp, nhưng oái oăm thay, mọi bằng chứng cho thấy sự khác biệt ấy


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.