Hôm nay,  

Trông Người Mà Nghĩ Đến Ta

6/8/200700:00:00(View: 8963)

Lời giới thiệu: Theo lịch trình quản thúc, bà Aung San Suu Kyi đã phải được trả tự  do vào ngày 27/5 vừa qua. Các tổ chức nhân quyền trên thế giới đều đã lên tiếng nhắc nhỡ giới quân nhân cầm quyền Miến Điện (nay gọi là Myanmar) giữ lời hứa, nhưng nhà cầm quyền quân sự Myanmar vẫn để ngoài tai và ra lệnh tiếp tục quản thúc bà. Liên hiệp quốc không thể ban hành biện pháp trừng phạt vì Trung quốc cho biết sẽ phủ quyết mọi quyết nghị trừng phạt Myanmar của Hội đồng Bảo an. 

Tạp chí The Economist số ngày 26/5 – 1/6/2007 viết bài  “Dirty dealings” (tạm dịch là “Những vụ đổi chác dơ bẩn”) giải thích hành động của các  tướng lãnh cầm quyền tại Myanmar. Qua câu chuyện này chúng ta có một góc nhìn để hiểu hơn những biến chuyển tại Việt Nam trong 8 tháng vừa qua (10/06 -6/07). Sau đây là bản phóng dịch bài “Dirty dealings.”

http://www.economist.com/world/asia/displaystory.cfm"story_id=9241448&CFID=8101632&CFTOKEN=69962028

Trần Bình Nam

Các tướng lãnh Myanmar cai trị đất nước một cách hoang tưởng, độc ác và bao trùm bí mật là đề tài ngon lành của những nhà báo chuyên viết về thuyết âm mưu . Tháng Tư vừa qua Myanmar tái thiết lập quan hệ ngoại giao với Bắc Hàn. Ngày 15/5 Liên bang Nga cho biết đang lập lại hồ sơ bán một lò phản ứng nguyên tử nhỏ cho Myanmer. Cách đây mấy năm, kỹ sư Abdul Qadeer Khan, người có công chế tạo bom nguyên tử cho Pakistan, và là người có trách nhiệm bán hiểu biết kỹ thuật chế tạo vũ khí nguyên tử [cho Bắc Hàn và Iran (*)] đã đến viếng thăm các lãnh tụ Myanmar. Đặt các sự việc đó lên bàn người ta thấy một bức tranh đáng lo ngại là Myanmar có định tâm chế tạo bom nguyên tử.

Nhưng thực tế mà xét thì điều này khó xẩy ra. Trong một bài báo, nhà báo Andrew Selth người Miến cho rằng giới quân nhân cầm quyền tại Miến khó làm được bom nguyên tử trong 10 năm tới . Myanmer không đủ tài nguyên, không có hiểu biết kỹ thuật và có thể các tướng lãnh cũng không muốn làm việc đó . Từ trước đến nay các nhà lãnh đạo quân sự Miến vẫn tỏ ra chống việc lan truyền vũ khí nguyên tử. Lò nguyên tử nhỏ Liên bang Nga sắp bán cho Miến có thể chỉ để trang điểm và nói lên rằng Miến cũng là nước tân tiến về mặt kỹ thuật. Một bài báo khác của ông Selth cũng bác bỏ tin đồn Trung quốc đang xây dựng nhiều căn cứ quân sự dọc bờ biển Miến để đe dọa Ấn Độ và mở đường ra Ấn Độ Dương.  Theo ông Selth, chế độ Myanmar có khuynh hướng bài ngoại do đó khó có thể họ để cho Trung quốc xây dựng căn cứ quân sự trên đất nhà.

Thực tế có thể là Trung quốc, Liên bang Nga (hai nước đang nuôi mộng siêu cường) và Ấn Độ đang ve vãn Miến Điện vì Miến có nhiều tài nguyên. Trong khi các tướng lãnh Miến muốn làm cho ba nước này tranh nhau vì quyền lợi để họ có thể nhờ tay các nước này giúp chống lại áp lực đòi hỏi dân chủ của thế giới Tây phương. Tháng Giêng vừa qua Trung quốc và Liên bang Nga – cả hai nước vừa ký những hợp đồng lớn khai thác dầu thô và khí đốt của Miến - đều bỏ phiếu phủ quyết một quyết nghị của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc trừng phạt Miến Điện do Hoa kỳ đề nghị.

Ấn Độ thường ngả theo các nước Tây phương đòi các nước khác cải tổ dân chủ. Nhưng lần này một phần ngại Trung quốc sẽ xây căn cứ quân sự tại Miến, một phần vì nhu cầu năng lượng nên Ấn bỏ nguyên tắc sang một bên và gạ gẫm bán vũ khí và viện trợ tài chánh cho Miến. Ấn Độ giải thích đây là chính sách “hợp tác để thuyết phục” (constructive engagement). Các tướng lãnh Miến chê vũ khí của Trung quốc xấu nên rất phấn khởi trước đề nghị bán vũ khí của Ấn gồm súng đại bác và máy bay trinh thám.

Về phầnTrung quốc, biết rằng họ khó có thể xây dựng căn cứ quân sự trên đất Miến, nhưng nếu giúp Miến khai thác dầu thô và khí đốt, nhất là thiết kế một ống dẫn dầu băng qua Miến ra Ấn độ dương thì Trung quốc quốc bớt lo trường hợp eo biển Malacca bị kẹt. Hiện nay hầu hết dầu thô nhập cảng vào Trung quốc đều qua eo biển Malacca .

Tuy nhiên – như kinh nghiệm Ấn độ đã trải qua - không ai có thể tin vào bản tính lật lọng của các tướng lãnh Miến. Trước đây hai công ty năng lượng Ấn và một công ty Nam Hàn đã ký giao kèo khai thác khí đốt ngoài khơi của Miến. Ấn và Nam hàn đã bỏ nhiều công của cho dự án nhưng giữa chừng Miến hủy bỏ giao kèo vì Trung quốc trả giá cao hơn.

Ngày 27/5/07 là ngày hết hạn quản thúc tại gia của bà Aung San Suu Kyi, nhưng có phần chắc các tướng lãnh Miến sẽ chưa chịu trả tự do cho bà [và quả thật các tướng Miến đã tiếp tục quản thúc bà (*)].

Hoa Kỳ và Liên hiệp Âu châu vẫn đơn phương duy trì các biện pháp trừng phạt đối với Miến, nhưng sự cứng rắn của Tây phương và chính sách “hợp tác để thuyết phục” của Ấn độ không làm các tướng lãnh Miến thay đổi chính sách độc tài. Bởi lẽ còn quá nhiều nước khác đứng chờ ve vãn Miến.

June 7, 2007

[email protected]

www.tranbinhnam.com

(*) ghi chú của người dịch

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.