Hôm nay,  

Obama Hay Hillary?

11/03/200800:00:00(Xem: 12982)
...có phải là quả bóng Obama bắt đầu xì hơi không...
Với chiến thắng tuần qua của thượng nghị sĩ Hillary Clinton tại Rhode Island, Ohio và Texas, cuộc chạy đua vào Tòa Bạch Ốc bên phía Dân Chủ đã đi vào… ngõ cụt.
Trong ba tuần sau ngày Thứ Ba Hồng Thủy, ông Obama liên tục thắng mười hai hiệp liền. Vì vậy, người ta bắt đầu nghe nhiều tiếng kêu gọi bà Hillary rút lui trong trật tự để tránh cảnh ngao sò giết nhau cho ngư ông McCain thủ lợi.
Bây giờ, dù kể thêm những chiến thắng mới nhất, bà Hillary vẫn còn thua nghị sĩ Barack Obama về tổng số phiếu cử tri, số tiểu bang, cũng như số ghế đại biểu. Bà cũng thua luôn trong cuộc chạy đua lấy lòng giới truyền thông cấp tiến. Và một vài tờ báo vẫn tiếp tục kêu gọi bà rút lui.
Nhưng vấn đề không giản dị như vậy.
Về tổng số phiếu, tính đến sau ngày Ohio và Texas bầu sơ bộ, tùy theo ước tính của mỗi cơ quan thống kê, bà Hillary có thể thua Obama 300.000 phiếu, hay thắng Obama 30.000 phiếu, trong tổng số gần 30 triệu dân Mỹ đi bầu. Chẳng biết phải hiểu như thế nào về những ước tính khác biệt này!
Về số tiểu bang, vấn đề mới lại thêm rắc rối.
Bà Hillary thắng tại chín tiểu bang trong khi ông Obama về đầu tại gần 25 tiểu bang. Nhưng ông Obama thắng phần lớn tại các tiểu bang miền nam và miền tây-bắc, là những tiểu bang “vô dụng” vì đảng Dân Chủ là thiểu số tại đó và chắc chắn Cộng Hòa sẽ thắng tại những bang này trong kỳ bầu cử tháng Mười Một. Trong khi đó, bà Hillary thắng tại các tiểu bang lớn nhất và đông dân nhất, nghĩa là then chốt nhất, từ New York, đến New Jersey, California, Texas, Michigan, Massachusetts...
Quan trọng hơn thế, bà còn thắng tại Florida và Ohio, và có nhiều bảo đảm sẽ thắng luôn tại Pennsylvania, là ba tiểu bang “sinh tử”.
Muốn đắc cử tổng thống trong cuộc bầu cử toàn quốc vào tháng 11 này, bắt buộc một ứng viên, dù Dân Chủ hay Cộng Hòa, phải thắng ít nhất hai trong số ba tiểu bang này. Các ông Gore và Kerry trước đây thua ông Bush chỉ vì thắng có Pennsylvania trong khi thua tại Ohio và Florida. Obama thua Hillary tại cả ba tiểu bang này thì làm sao thắng được McCain" Hiện nay, nhiều chuyên gia nhìn vào tình trạng này và lo ngại Obama sẽ thắng bà Hillary để đại diện cho Dân Chủ, nhưng rồi sẽ thua McCain của Cộng Hòa!
Về số ghế đại biểu, bà Hillary hiện có khoảng 1.450 phiếu, và Obama có khoảng 1.550 phiếu, trong khi cần phải có hơn 2.000 phiếu mới thành ứng viên chính thức đại diện cho Dân Chủ. Người ta ước lượng cho dù thắng hết tất cả các tiểu bang còn lại, bà vẫn không đạt được túc số cần thiết. Nhưng Obama cũng vậy, cho dù có thắng hết tất cả các cuộc bầu phiếu còn lại cũng chưa đạt được túc số đắc cử. Do đó cả hai bên đều cần phiếu của các “siêu đại biểu”. Trong số gần 800 người này thì 200 ủng hộ Obama, 220 ủng hộ Clinton, và gần 400 vẫn chưa có thái độ dứt khoát. Phần lớn những “siêu đại biểu” này là các dân biểu, nghị sĩ, thống đốc, là những người đã thành đạt trong thời chồng bà Hillary làm tổng thống, do đó vẫn chịu ơn mưa móc của ông bà Clinton.
Nhìn kỹ những con số đó, người ta thấy hiển nhiên rằng hai bên còn ngang ngửa với nhau, chẳng thấy gì là quyết định cả, nếu không muốn nói là bà Hillary hơi có lợi thế hơn, đặc biệt là điểm liên quan đến các tiểu bang bà đã thắng.
Những nhận định trên sẽ làm nhiều người ngạc nhiên nếu họ chỉ đọc phớt qua báo chí. Giới truyền thông cấp tiến dường như đang bị bùa mê Obama hớp hồn, tung hô Obama như thánh sống, để rồi thay nhau kêu gọi bà Hillary rút lui. Chỉ trong một tuần lễ trước ngày bầu cử tại Ohio và Texas, cả bốn tờ báo lớn nhất Mỹ, là New York Times, Washington Post, Time và Newsweek đều có bài viết kêu gọi bà Hillary rút lui. 
Dĩ nhiên những người thân cận đảng Dân Chủ lo lắng cho chuyện huynh đệ tương tàn trong khi đối thủ Cộng Hòa vui vẻ ôm nhau ca bài “đoàn kết là mẹ thành công”.
Nhưng vấn đề là tại sao bà Hillary lại phải rút lui mà không phải là Obama"
Nếu nói về số phiếu cử tri thì những con số trên đã chứng minh rõ ràng chưa ai thắng ai hết. Nếu nói về lập trường và quan điểm thì bà Hillary và ông Obama, giống như hai chị em sinh đôi, chẳng có gì khác nhau.
Nếu nói về kinh nghiệm chính trường thì bà Hillary trội hơn hẳn ông Obama, với nay là tám năm làm thượng nghị sĩ và tám năm học lóm với tổng thống phu quân. Nếu nói về khả năng kinh bang tế thế thì cũng ngang nhau vì chưa bên nào có dịp chứng tỏ tài năng của mình. Tuy nhiên bà Hillary có lợi thế là sẽ có sự “yểm trợ” của ông chồng đã từng làm tổng thống trong tám năm.
Nếu nói về tài múa mép khua môi và vẽ bánh thì dĩ nhiên ông Obama hơn bà Hillary nhiều. Nhưng chẳng lẽ đây lại là tiêu chuẩn quan trọng nhất để bầu tổng thống sao"
Nhìn vào con người bà Hillary thì ai cũng thấy rõ bà không phải là người dễ dàng chịu bỏ cuộc. Sau khi thua liên tiếp mười hai keo và trước áp lực của báo chí, bà chẳng những không rút lui lại còn phản công mạnh mẽ bằng cách tận tình đánh Obama thẳng tay trong mấy ngày trước ngày bầu bán ở Ohio và Texas.
Bà tung ra màn quảng cáo trên truyền hình trong đó có thu hình một vài em bé đang ngủ ngon giấc và đặt câu hỏi nếu như trong lúc này, giữa đêm khuya – ba giờ sáng - chuông điện thoái đỏ tại Tòa Bạch Ốc reo lên, thì ai sẽ là vị tổng thống có khả năng ứng phó với cuộc khủng hoảng nghiêm trọng và bất ngờ đó để bảo đảm những em bé đó tiếp tục an giấc" Ý bà muốn so sánh kinh nghiệm chính trường mỏng manh của Obama với sự từng trải của bà. Mặc dù ai cũng biết bà Hillary chưa từng gặp trường hợp nửa đêm phải dậy giải quyết khủng hoảng (không kể “khủng hoảng gia đình” với ông chồng đào hoa), nhưng màn quảng cáo này dường như đã có tác dụng, khiến nhiều người phải suy nghĩ lại về kinh nghiệm ứng phó khủng hoảng của Obama.

Điều thú vị và buồn cười là bà Hillary thật ra chẳng có gì hơn Obama về khả năng giải quyết khủng hoảng an ninh quốc phòng mà vẫn đánh Obama trong chuyện này được. Thử tưởng tượng nếu Obama phải đối đầu với McCain thì Obama sẽ ôm đầu máu đến cỡ nào"
Rồi bà Hillary cũng được “trời” giúp khi ông Obama gặp xui xẻo liên tục trong khoảng thời gian đó.
Trước hết là vụ bà vợ lớn tiếng hò hét “lần đầu tiên trong đời, bà lấy làm hãnh diện là người Mỹ”. Bà bị chỉ trích ngay lập tức là đã phủ nhận bao nhiêu thành công của nước Mỹ trong mấy thập niên qua, và chỉ hãnh diện khi chồng bà thành công thôi, báo hại ông chồng phải thanh minh thanh nga gần chết. Rồi người ta đọc được luận án tiến sĩ của bà trong đó bà khẳng định nước Mỹ có nạn kỳ thị da màu, một lập luận đi ngược lại những quả quyết của ông chồng khi đi vận động tranh cử.
Rồi đến vụ ông Tony Rezko, một tài phiệt Chicago gốc Trung Đông (Syria) đã từng tài trợ sự nghiệp chính trị của ông Obama, đang bị ra tòa vì tham nhũng. Ông Obama không dính dáng đến mấy chuyện tham nhũng bị tố đó, nhưng lại là người đã từng nhận rất nhiều tiền yểm trợ của Rezko từ hai chục năm qua. Chưa kể việc vợ của Rezko mua miếng đất bên cạnh nhà của Obama bằng tiền của một cựu bộ trưởng tham nhũng của... Saddam Hussein (!), rồi bán lại ngay cho Obama để Obama mở rộng vườn sau nhà.
Nghe khét khét đâu đây.
Rồi đến chuyện Louis Farrakhan lên tiếng ủng hộ Obama. Cái ông Farrakhan này là chủ tịch của tổ chức Nation of Islam, là một nhóm chính trị Hồi giáo quá khích ở Mỹ, chủ trương phát huy Hồi giáo và truy diệt Do Thái. Được Farrakhan ủng hộ thì không khác gì được tặng bom, khiến ông Obama phải khước từ muốn đứt hơi. Dù sao thì cũng khá nhiều cử tri Dân Chủ thân Do Thái đã suy nghĩ lại, nhất là khi cái tên đệm của Obama lại là … Hussein, một cái tên dân Do Thái nghe thấy là muốn phát điên.
Kế tiếp là vụ NAFTA. Đây là một hiệp ước thương mại giữa Mỹ, Canada, và Mexico, nhằm mở rộng giao thương giữa ba nước Bắc Mỹ. Hiệp ước này do TT Bush (cha) thương lượng, rồi TT Clinton hồ hởi ký sau hai năm vận động và nhờ lá phiếu... Cộng Hoà mới đủ túc số. Hiệp ước bị chống đối mạnh tại những tiểu bang bắc Mỹ vì bị coi là nguyên nhân đưa đến thất nghiệp trầm trọng tại đây. Vì muốn tranh phiếu tại vùng này, trong đó có tiểu bang Ohio, ông Obama công khai đả phá hiệp ước.
Nhưng ông lại lén đi đêm, có lẽ vì muốn trấn an ông hàng xóm Canada.
Một đài truyền hình Canada khui ra là Obama đã điện thoại cho Đại sứ Canada tại Hoa Kỳ để xác định lập trường của Obama công khai chống NAFTA chỉ là đòn chính trị nổi trong mùa tranh cử. Nghĩa là không có ảnh hưởng gì đến hiệp ước đó hết. Obama lớn tiếng chối cãi. Nhưng ngay sau đó thì báo chí khám phá ra là một đại diện - và cố vấn kinh tế - của Obama có họp với lãnh sự Canada ở Chicago để khẳng định việc Obama chống NAFTA chỉ là mần tuồng. Một lần nữa, Obama lại phải cải chính, cho rằng cái ông đại diện đi gặp lãnh sự Canada chỉ là đi với tư cách cá nhân, không đại diện và phản ảnh lập trường của Obama.
Có thể là như vậy thật, nhưng chắc chắn cũng có nhiều nhân công mất job tại Ohio không tin lời thanh minh của Obama.
Bà Hillary không bỏ qua cơ hội khai thác, đánh Obama tận tình trên ngần ấy vấn đề. Trong khi ấy, bà cũng không ngớt than vãn giới truyền thông là thiên vị quá đáng về phe Obama, khiến giới này bắt đầu thấy nhột, nên bắt đầu đặt câu hỏi với ông Obama nhiều hơn. Và trong một vòng tranh cử, khi báo chí đặt câu hỏi thứ tám thì ông Obama chém vè: "tám câu đủ rồi", và lặn mất tăm, ngược với ông McCain, luôn luôn nghe ngóng và trả lời từng câu hỏi gần xa của báo chí.
Một yếu tố đáng kể nữa là sự kiện ông McCain rõ ràng sẽ là ứng viên của Cộng Hòa.
Các cử tri Dân Chủ bắt buộc phải nghĩ lại xem Obama có hy vọng thắng được một ứng viên nặng ký như McCain hay không.
Kết quả cơn sốt Obama đã bị chặn đứng tại Ohio và Texas.
Không ai biết được có phải là quả bóng Obama bắt đầu xì hơi không. Chỉ biết là cuộc chạy đua bên phía Dân Chủ còn rất gay cấn, và mọi ý kiến rút lui, cho dù của bà Hillary hay của ông Obama, đều là không thực tế.
Rồi người ta nghĩ chuyện hai người ngồi chung với nhau trong một liên danh “lý tưởng” (dream ticket). Kể ra thì liên danh Obama-Clinton có thể sẽ là cơn ác mộng cho McCain. Dân Mỹ đã quá ngán anh cao bồi Bush với cuộc phiêu lưu Iraq, các dân biểu Cộng Hòa lem nhem, trì trệ kinh tế, khủng hoảng địa ốc,… Thế nào họ cũng ùa qua bên Dân Chủ nếu có sự đoàn kết giữa hai phe Obama và Hillary, và nếu dân Mỹ sẵn sàng chấp nhận một lúc một phụ nữ và một người da đen lãnh đạo (hơi khó tưởng tượng được!)
Nhưng thực tế mà nói, rất ít hy vọng có được liên danh này. Cả hai ứng viên Obama và Hillary đều có vẻ ủng hộ sáng kiến này, với điều kiện… mình đứng đầu liên danh.
Bà Hillary với tham vọng lớn hơn người, và với sự chuẩn bị từ hơn hai chục năm qua, chắc sẽ khó chấp nhận làm phó tổng thống một lần nữa. Ai cũng biết bà đã thực sự là “đệ nhất phó tổng thống” dưới thời chồng làm tổng thống trong khi Al Gore thực sự chỉ là “đệ nhị phó tổng thống”.
Trong khi đó, Obama chê bà Hillary là “rượu cũ bình cũ”, đòi hỏi thay đổi hết, chẳng lẽ lại chấp nhận vào bàn tiệc, làm phó cho bà Hillary sao" Như vậy thì cũng chỉ là một chính khách nói phét và tham quyền như bao nhiêu chính khách khác thôi. Có phải là đã phản bội lại niềm tin của những người đã lỡ tin tưởng vào những hứa hẹn nổ hơn pháo của ông không" Hơn thế nữa, có lẽ Obama sẽ không chấp nhận làm “đệ nhị phó tổng thống” như Al Gore, đứng sau “đệ nhất phó tổng thống” Bill Clinton.
Như vậy thì cũng như không thôi. Và họ sẽ tiếp tục đánh đá nhau. Nếu cứ tiếp tục kiểu này cho tới đại hội đảng cuối tháng Tám, thì sẽ thật khó có hy vọng hàn gắn, ngồi lại với nhau được.
Và ngư ông McCain sẽ có nhiều hy vọng thủ lợi thật. (9-3-08)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi đối với cha mẹ có thể cung kính mà vui vẻ, mới là tận Hiếu. Chữ “Kính” nhấn mạnh việc không để xảy ra sơ suất dù rất nhỏ, phụng dưỡng cha mẹ già xuất phát từ nội tâm, với khuôn mặt vui vẻ, mới có thể nói là “Hiếu.” Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn. Con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.