Hôm nay,  

Obama Hay Hillary?

11/03/200800:00:00(Xem: 12794)
...có phải là quả bóng Obama bắt đầu xì hơi không...
Với chiến thắng tuần qua của thượng nghị sĩ Hillary Clinton tại Rhode Island, Ohio và Texas, cuộc chạy đua vào Tòa Bạch Ốc bên phía Dân Chủ đã đi vào… ngõ cụt.
Trong ba tuần sau ngày Thứ Ba Hồng Thủy, ông Obama liên tục thắng mười hai hiệp liền. Vì vậy, người ta bắt đầu nghe nhiều tiếng kêu gọi bà Hillary rút lui trong trật tự để tránh cảnh ngao sò giết nhau cho ngư ông McCain thủ lợi.
Bây giờ, dù kể thêm những chiến thắng mới nhất, bà Hillary vẫn còn thua nghị sĩ Barack Obama về tổng số phiếu cử tri, số tiểu bang, cũng như số ghế đại biểu. Bà cũng thua luôn trong cuộc chạy đua lấy lòng giới truyền thông cấp tiến. Và một vài tờ báo vẫn tiếp tục kêu gọi bà rút lui.
Nhưng vấn đề không giản dị như vậy.
Về tổng số phiếu, tính đến sau ngày Ohio và Texas bầu sơ bộ, tùy theo ước tính của mỗi cơ quan thống kê, bà Hillary có thể thua Obama 300.000 phiếu, hay thắng Obama 30.000 phiếu, trong tổng số gần 30 triệu dân Mỹ đi bầu. Chẳng biết phải hiểu như thế nào về những ước tính khác biệt này!
Về số tiểu bang, vấn đề mới lại thêm rắc rối.
Bà Hillary thắng tại chín tiểu bang trong khi ông Obama về đầu tại gần 25 tiểu bang. Nhưng ông Obama thắng phần lớn tại các tiểu bang miền nam và miền tây-bắc, là những tiểu bang “vô dụng” vì đảng Dân Chủ là thiểu số tại đó và chắc chắn Cộng Hòa sẽ thắng tại những bang này trong kỳ bầu cử tháng Mười Một. Trong khi đó, bà Hillary thắng tại các tiểu bang lớn nhất và đông dân nhất, nghĩa là then chốt nhất, từ New York, đến New Jersey, California, Texas, Michigan, Massachusetts...
Quan trọng hơn thế, bà còn thắng tại Florida và Ohio, và có nhiều bảo đảm sẽ thắng luôn tại Pennsylvania, là ba tiểu bang “sinh tử”.
Muốn đắc cử tổng thống trong cuộc bầu cử toàn quốc vào tháng 11 này, bắt buộc một ứng viên, dù Dân Chủ hay Cộng Hòa, phải thắng ít nhất hai trong số ba tiểu bang này. Các ông Gore và Kerry trước đây thua ông Bush chỉ vì thắng có Pennsylvania trong khi thua tại Ohio và Florida. Obama thua Hillary tại cả ba tiểu bang này thì làm sao thắng được McCain" Hiện nay, nhiều chuyên gia nhìn vào tình trạng này và lo ngại Obama sẽ thắng bà Hillary để đại diện cho Dân Chủ, nhưng rồi sẽ thua McCain của Cộng Hòa!
Về số ghế đại biểu, bà Hillary hiện có khoảng 1.450 phiếu, và Obama có khoảng 1.550 phiếu, trong khi cần phải có hơn 2.000 phiếu mới thành ứng viên chính thức đại diện cho Dân Chủ. Người ta ước lượng cho dù thắng hết tất cả các tiểu bang còn lại, bà vẫn không đạt được túc số cần thiết. Nhưng Obama cũng vậy, cho dù có thắng hết tất cả các cuộc bầu phiếu còn lại cũng chưa đạt được túc số đắc cử. Do đó cả hai bên đều cần phiếu của các “siêu đại biểu”. Trong số gần 800 người này thì 200 ủng hộ Obama, 220 ủng hộ Clinton, và gần 400 vẫn chưa có thái độ dứt khoát. Phần lớn những “siêu đại biểu” này là các dân biểu, nghị sĩ, thống đốc, là những người đã thành đạt trong thời chồng bà Hillary làm tổng thống, do đó vẫn chịu ơn mưa móc của ông bà Clinton.
Nhìn kỹ những con số đó, người ta thấy hiển nhiên rằng hai bên còn ngang ngửa với nhau, chẳng thấy gì là quyết định cả, nếu không muốn nói là bà Hillary hơi có lợi thế hơn, đặc biệt là điểm liên quan đến các tiểu bang bà đã thắng.
Những nhận định trên sẽ làm nhiều người ngạc nhiên nếu họ chỉ đọc phớt qua báo chí. Giới truyền thông cấp tiến dường như đang bị bùa mê Obama hớp hồn, tung hô Obama như thánh sống, để rồi thay nhau kêu gọi bà Hillary rút lui. Chỉ trong một tuần lễ trước ngày bầu cử tại Ohio và Texas, cả bốn tờ báo lớn nhất Mỹ, là New York Times, Washington Post, Time và Newsweek đều có bài viết kêu gọi bà Hillary rút lui. 
Dĩ nhiên những người thân cận đảng Dân Chủ lo lắng cho chuyện huynh đệ tương tàn trong khi đối thủ Cộng Hòa vui vẻ ôm nhau ca bài “đoàn kết là mẹ thành công”.
Nhưng vấn đề là tại sao bà Hillary lại phải rút lui mà không phải là Obama"
Nếu nói về số phiếu cử tri thì những con số trên đã chứng minh rõ ràng chưa ai thắng ai hết. Nếu nói về lập trường và quan điểm thì bà Hillary và ông Obama, giống như hai chị em sinh đôi, chẳng có gì khác nhau.
Nếu nói về kinh nghiệm chính trường thì bà Hillary trội hơn hẳn ông Obama, với nay là tám năm làm thượng nghị sĩ và tám năm học lóm với tổng thống phu quân. Nếu nói về khả năng kinh bang tế thế thì cũng ngang nhau vì chưa bên nào có dịp chứng tỏ tài năng của mình. Tuy nhiên bà Hillary có lợi thế là sẽ có sự “yểm trợ” của ông chồng đã từng làm tổng thống trong tám năm.
Nếu nói về tài múa mép khua môi và vẽ bánh thì dĩ nhiên ông Obama hơn bà Hillary nhiều. Nhưng chẳng lẽ đây lại là tiêu chuẩn quan trọng nhất để bầu tổng thống sao"
Nhìn vào con người bà Hillary thì ai cũng thấy rõ bà không phải là người dễ dàng chịu bỏ cuộc. Sau khi thua liên tiếp mười hai keo và trước áp lực của báo chí, bà chẳng những không rút lui lại còn phản công mạnh mẽ bằng cách tận tình đánh Obama thẳng tay trong mấy ngày trước ngày bầu bán ở Ohio và Texas.
Bà tung ra màn quảng cáo trên truyền hình trong đó có thu hình một vài em bé đang ngủ ngon giấc và đặt câu hỏi nếu như trong lúc này, giữa đêm khuya – ba giờ sáng - chuông điện thoái đỏ tại Tòa Bạch Ốc reo lên, thì ai sẽ là vị tổng thống có khả năng ứng phó với cuộc khủng hoảng nghiêm trọng và bất ngờ đó để bảo đảm những em bé đó tiếp tục an giấc" Ý bà muốn so sánh kinh nghiệm chính trường mỏng manh của Obama với sự từng trải của bà. Mặc dù ai cũng biết bà Hillary chưa từng gặp trường hợp nửa đêm phải dậy giải quyết khủng hoảng (không kể “khủng hoảng gia đình” với ông chồng đào hoa), nhưng màn quảng cáo này dường như đã có tác dụng, khiến nhiều người phải suy nghĩ lại về kinh nghiệm ứng phó khủng hoảng của Obama.

Điều thú vị và buồn cười là bà Hillary thật ra chẳng có gì hơn Obama về khả năng giải quyết khủng hoảng an ninh quốc phòng mà vẫn đánh Obama trong chuyện này được. Thử tưởng tượng nếu Obama phải đối đầu với McCain thì Obama sẽ ôm đầu máu đến cỡ nào"
Rồi bà Hillary cũng được “trời” giúp khi ông Obama gặp xui xẻo liên tục trong khoảng thời gian đó.
Trước hết là vụ bà vợ lớn tiếng hò hét “lần đầu tiên trong đời, bà lấy làm hãnh diện là người Mỹ”. Bà bị chỉ trích ngay lập tức là đã phủ nhận bao nhiêu thành công của nước Mỹ trong mấy thập niên qua, và chỉ hãnh diện khi chồng bà thành công thôi, báo hại ông chồng phải thanh minh thanh nga gần chết. Rồi người ta đọc được luận án tiến sĩ của bà trong đó bà khẳng định nước Mỹ có nạn kỳ thị da màu, một lập luận đi ngược lại những quả quyết của ông chồng khi đi vận động tranh cử.
Rồi đến vụ ông Tony Rezko, một tài phiệt Chicago gốc Trung Đông (Syria) đã từng tài trợ sự nghiệp chính trị của ông Obama, đang bị ra tòa vì tham nhũng. Ông Obama không dính dáng đến mấy chuyện tham nhũng bị tố đó, nhưng lại là người đã từng nhận rất nhiều tiền yểm trợ của Rezko từ hai chục năm qua. Chưa kể việc vợ của Rezko mua miếng đất bên cạnh nhà của Obama bằng tiền của một cựu bộ trưởng tham nhũng của... Saddam Hussein (!), rồi bán lại ngay cho Obama để Obama mở rộng vườn sau nhà.
Nghe khét khét đâu đây.
Rồi đến chuyện Louis Farrakhan lên tiếng ủng hộ Obama. Cái ông Farrakhan này là chủ tịch của tổ chức Nation of Islam, là một nhóm chính trị Hồi giáo quá khích ở Mỹ, chủ trương phát huy Hồi giáo và truy diệt Do Thái. Được Farrakhan ủng hộ thì không khác gì được tặng bom, khiến ông Obama phải khước từ muốn đứt hơi. Dù sao thì cũng khá nhiều cử tri Dân Chủ thân Do Thái đã suy nghĩ lại, nhất là khi cái tên đệm của Obama lại là … Hussein, một cái tên dân Do Thái nghe thấy là muốn phát điên.
Kế tiếp là vụ NAFTA. Đây là một hiệp ước thương mại giữa Mỹ, Canada, và Mexico, nhằm mở rộng giao thương giữa ba nước Bắc Mỹ. Hiệp ước này do TT Bush (cha) thương lượng, rồi TT Clinton hồ hởi ký sau hai năm vận động và nhờ lá phiếu... Cộng Hoà mới đủ túc số. Hiệp ước bị chống đối mạnh tại những tiểu bang bắc Mỹ vì bị coi là nguyên nhân đưa đến thất nghiệp trầm trọng tại đây. Vì muốn tranh phiếu tại vùng này, trong đó có tiểu bang Ohio, ông Obama công khai đả phá hiệp ước.
Nhưng ông lại lén đi đêm, có lẽ vì muốn trấn an ông hàng xóm Canada.
Một đài truyền hình Canada khui ra là Obama đã điện thoại cho Đại sứ Canada tại Hoa Kỳ để xác định lập trường của Obama công khai chống NAFTA chỉ là đòn chính trị nổi trong mùa tranh cử. Nghĩa là không có ảnh hưởng gì đến hiệp ước đó hết. Obama lớn tiếng chối cãi. Nhưng ngay sau đó thì báo chí khám phá ra là một đại diện - và cố vấn kinh tế - của Obama có họp với lãnh sự Canada ở Chicago để khẳng định việc Obama chống NAFTA chỉ là mần tuồng. Một lần nữa, Obama lại phải cải chính, cho rằng cái ông đại diện đi gặp lãnh sự Canada chỉ là đi với tư cách cá nhân, không đại diện và phản ảnh lập trường của Obama.
Có thể là như vậy thật, nhưng chắc chắn cũng có nhiều nhân công mất job tại Ohio không tin lời thanh minh của Obama.
Bà Hillary không bỏ qua cơ hội khai thác, đánh Obama tận tình trên ngần ấy vấn đề. Trong khi ấy, bà cũng không ngớt than vãn giới truyền thông là thiên vị quá đáng về phe Obama, khiến giới này bắt đầu thấy nhột, nên bắt đầu đặt câu hỏi với ông Obama nhiều hơn. Và trong một vòng tranh cử, khi báo chí đặt câu hỏi thứ tám thì ông Obama chém vè: "tám câu đủ rồi", và lặn mất tăm, ngược với ông McCain, luôn luôn nghe ngóng và trả lời từng câu hỏi gần xa của báo chí.
Một yếu tố đáng kể nữa là sự kiện ông McCain rõ ràng sẽ là ứng viên của Cộng Hòa.
Các cử tri Dân Chủ bắt buộc phải nghĩ lại xem Obama có hy vọng thắng được một ứng viên nặng ký như McCain hay không.
Kết quả cơn sốt Obama đã bị chặn đứng tại Ohio và Texas.
Không ai biết được có phải là quả bóng Obama bắt đầu xì hơi không. Chỉ biết là cuộc chạy đua bên phía Dân Chủ còn rất gay cấn, và mọi ý kiến rút lui, cho dù của bà Hillary hay của ông Obama, đều là không thực tế.
Rồi người ta nghĩ chuyện hai người ngồi chung với nhau trong một liên danh “lý tưởng” (dream ticket). Kể ra thì liên danh Obama-Clinton có thể sẽ là cơn ác mộng cho McCain. Dân Mỹ đã quá ngán anh cao bồi Bush với cuộc phiêu lưu Iraq, các dân biểu Cộng Hòa lem nhem, trì trệ kinh tế, khủng hoảng địa ốc,… Thế nào họ cũng ùa qua bên Dân Chủ nếu có sự đoàn kết giữa hai phe Obama và Hillary, và nếu dân Mỹ sẵn sàng chấp nhận một lúc một phụ nữ và một người da đen lãnh đạo (hơi khó tưởng tượng được!)
Nhưng thực tế mà nói, rất ít hy vọng có được liên danh này. Cả hai ứng viên Obama và Hillary đều có vẻ ủng hộ sáng kiến này, với điều kiện… mình đứng đầu liên danh.
Bà Hillary với tham vọng lớn hơn người, và với sự chuẩn bị từ hơn hai chục năm qua, chắc sẽ khó chấp nhận làm phó tổng thống một lần nữa. Ai cũng biết bà đã thực sự là “đệ nhất phó tổng thống” dưới thời chồng làm tổng thống trong khi Al Gore thực sự chỉ là “đệ nhị phó tổng thống”.
Trong khi đó, Obama chê bà Hillary là “rượu cũ bình cũ”, đòi hỏi thay đổi hết, chẳng lẽ lại chấp nhận vào bàn tiệc, làm phó cho bà Hillary sao" Như vậy thì cũng chỉ là một chính khách nói phét và tham quyền như bao nhiêu chính khách khác thôi. Có phải là đã phản bội lại niềm tin của những người đã lỡ tin tưởng vào những hứa hẹn nổ hơn pháo của ông không" Hơn thế nữa, có lẽ Obama sẽ không chấp nhận làm “đệ nhị phó tổng thống” như Al Gore, đứng sau “đệ nhất phó tổng thống” Bill Clinton.
Như vậy thì cũng như không thôi. Và họ sẽ tiếp tục đánh đá nhau. Nếu cứ tiếp tục kiểu này cho tới đại hội đảng cuối tháng Tám, thì sẽ thật khó có hy vọng hàn gắn, ngồi lại với nhau được.
Và ngư ông McCain sẽ có nhiều hy vọng thủ lợi thật. (9-3-08)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm Thứ Sáu 26/9, Tổng Biên Tập JEFFREY GOLDBERG của tạp chí The Atlantic gửi ra tuyên bố phản đối lệnh của Ngũ Giác Đài về việc áp đặt, kiểm duyệt báo chí. Tuyên bố ghi rõ: “Về cơ bản, The Atlantic phản đối những hạn chế mà Ngũ Giác Đài đang cố gắng áp đặt đối với các nhà báo đưa tin về vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Những yêu cầu này vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của chúng ta, và quyền của người Mỹ muốn biết hình thức khai triển nguồn lực và nhân sự vốn do tiền thuế của người dân tài trợ. Những quy định này cũng phá vỡ các thông lệ lâu đời - dưới thời tổng thống của cả hai đảng, trong suốt thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng quốc gia - vốn cho phép các phóng viên Ngũ Giác Đài thực hiện công việc của mình mà không bị can thiệp chính trị.” The Atlantic đăng tuyên bố này trên trang mạng xã hội chính thức của tạp chí.
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.