Hôm nay,  

Gặp Nhau Những Muộn Màng

01/10/200800:00:00(Xem: 9956)
Người chiến binh năm cũ

Cuối tháng 9 năm nay chúng tôi chuẩn bị hình ảnh cho cuộc Triển lãm của Viện Bảo Tàng Việt Nam tại Dallas, Texas.

Đầu tháng 10, chương trình tao ngộ của hội gia đình cựu tù nhân chính trị tổ chức vào 3 ngày cuối tuần 3, 4 và 5 tháng 10 năm 2008. Ngoài hình ảnh, tác phẩm và di vật, chúng tôi muốn mang theo chân dung của những người tù chính trị từ California.

Tại sao lại chỉ đem theo chân dung và tiểu sử. Bởi vì những niên trưởng của chúng ta không còn đủ sức khỏe cho một cuộc hành trình xa xôi như vậy. Bà Khúc Minh Thơ đã tổ chức chậm cả 10 năm. Gặp gỡ bây giờ có thể là quá muộn màng. Quý vị hẳn có ý hỏi rằng tại sao lại muộn. Xin trả lời, nhiều vị cao niên đã không còn nữa. Và quý vị thân hữu còn lại trên dưới 80. Người tù cao niên nhất tại San Jose là thi sĩ Hà Thượng Nhân 90 tuổi. Chúng ta có Nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngọc Hạnh, Nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm và Đề đốc Trần Văn Chơn. Tất cả đều là dân làng San Jose. Tất cả đã già và yếu.

Phần triển lãm của chúng tôi còn có tài liệu về họa sĩ Tạ Tỵ. Ngày xưa ông đã từng in cuốn Đáy Địa ngục tại San Jose. Nay họa sĩ đã trở về và qua đời tại Việt Nam. Từ Úc châu, ông Võ Đại Tôn nằm nhà thương cũng gởi qua tài liệu để triển lãm.

Tất cả từ 70 đến 90 tuổi. Đi tù 'cải tạo' từ 10 đến 16 năm.

Họ là những Người Chiến binh năm cũ, còn có mặt hôm nay. Nhưng ngàn dặm sơn khê, gặp nhau quá muộn màng. Đành phải tham dự bằng hình ảnh, di sản, bút tự và tác phẩm. Họ là những người đặc biệt. Thi sĩ, Nhạc sĩ, Họa sĩ, Nhiếp ảnh gia và Chiến sĩ. Tất cả đều là HO, tù chính trị, tù binh, tù cải tạo. Gọi thế nào thì cũng là những chiến sĩ VNCH.

Một gia đình bình thường

Trong số hành trang triển lãm qua tựa đề 3 giai đoạn của người tù chính trị tại Việt Nam, chúng tôi xin giới thiệu câu chuyện của một gia đình HO rất bình thường.

Bác Mai Tân hiện đang cư ngụ tại San Jose là một thí dụ cụ thể. Sau chiến tranh Việt Nam, sau cuộc đổi đời, mỗi gia đình Việt Nam là một lịch sử vừa bi thảm, vừa hào hùng. Nhưng gia đình đại úy Tân thì đã có rất nhiều kinh nghiệm. Gần như cả gia đình trải qua tất cả mọi hoàn cảnh. Ông là một thanh niên quê miền Bắc nhập ngũ Bảo chính đoàn, di cư vào Nam. Đi từ Trung sĩ lên đến Đại úy. Gia đình 8 con. Không có trường hợp nào là không trải qua. Bố đi tù 'cải tạo' về, là các con lần lượt vượt biên. Lúc đi 2 đứa, lúc đi một người. Đường bộ, đường biển đủ cả. Thậm chí đứa bé trai 11 tuổi được bố mẹ gọi vào hỏi xem con có muốn đi không ". Con sẽ đi một mình. Nếu đi thoát, các anh con ở San Jose sẽ đón con vào Mỹ. Đứa bé con Ngụy 7 tuổi đã bị ném ra lề đường để tìm đường sống cho gia đình, bây giờ 11 tuổi phải tự quyết định lấy số mệnh đi hay ở, giữa một bên chân trời vô định và một bên khi lớn lên làm nghĩa vụ chiến trường Cam Bốt. Và đứa bé 11 tuổi vượt biên 10 lần đã thành công. Rồi chúng ta thường nghe câu chuyện người cha đi tù về, phải đạp cyclo và mẹ nuôi con, bán thuốc vỉa hè. Chúng tôi đi tìm hình người tù trở về đạp cyclo suốt bao năm nay, nhưng vô vọng. Gia đình ông Tân là những người duy nhất còn giữ được những tấm hình hết sức quý giá. Hình những đứa con ở các trại tỵ nạn khắp Đông nam Á. Hình bố đạp cyclo trọn vẹn 10 năm. Hình mẹ với quầy thuốc lá rất nghèo nàn bên vỉa hè.

Sau khi những đứa con đi đường biển, đường bộ đến được San Jose, phái đoàn của ông bà bắt đầu đi theo diện HO. Có cả tấm hình từ giã Tân Sơn Nhứt và tấm hình gặp nhau tại San Francisco. Nhưng chưa hết, gia đình người con lớn đi theo diện đoàn tụ, đến Mỹ sau cùng. Một bức hình toàn gia hết sức đông đảo với 3 thế hệ bước vào thế kỷ 21 đã có mặt đầy đủ mọi người.

Đó là một gia đình Việt Nam bình thường.

Đứa con thuyền nhân 11 tuổi bây giờ đã trở thành một thanh niên làm cho hãng bảo hiểm. Cháu nói với chúng tôi rằng: Bố cháu là dân cyclo đã chuyên nghiệp 10 năm, chứ không phải chỉ vài tháng rồi bỏ cuộc. Nếu không đi HO, có lẽ giờ này bố cháu có thể vẫn còn đạp cyclo. Bác có ai muốn nói chuyện về bảo hiểm giới thiệu cho cháu.

Ôi chiến tranh đã giết đi bao nhiêu thanh niên. Và hậu chiến đau thương đã đưa bao nhiêu chiến binh vào tù, rồi vất những đứa trẻ thơ ra đường bôn ba vì sinh kế. Sau cùng một thế hệ di sản của Việt Nam Cộng Hòa đã tồn tại vươn  lên trên đất lạ, nẩy mầm cho dân tộc tại hải ngoại với tương lai đầy hứa hẹn. Các bạn tôi, ai muốn nói chuyện bảo hiểm xin vui lòng liên lạc với tôi. Sẽ gặp thuyền nhân 11 tuổi.

Chồng tù thì vợ cũng tù

  Nếu chuyện của đại úy Mai Tân có vẻ rất bình thường thì chuyện của ông bà Thiếu tá Luân Hữu Đức lại khá đặc biệt.

Khi người ta là vợ ông Thiếu tá thì thiên hạ gọi là bà Thiếu tá. Nhưng tại Bộ tư lệnh Quân đoàn III Biên Hòa, bà Thiếu tá Luân Hữu Đức lại thực sự là Thiếu tá Nguyễn Bích Phượng, phân đoàn trưởng nữ quân nhân vùng 3 chiến thuật. Vì vậy nên khi Saigon mất, chồng tù thì vợ cũng tù.

Anh Đức sinh quán tại Bình Dương, chị Phượng khai sinh ở Hà Nội. Tình Bắc duyên Nam, cùng vào quân đội, lập gia đình và cùng thăng tiến. May mắn thay, có bà ngoại cao niên, chẳng sợ ai. Hình ảnh của các con trong quân đội cụ cất giữ cẩn thận. Hình sinh viên Thủ Đức của chồng, hình chuẩn úy Phượng ra trường nữ quân nhân. Rồi Đức vào Bình Long anh dũng. Phượng du học Hoa Kỳ. Hình đám cưới, hình vợ chồng trước khi đi tù. Lệnh tập trung cải tạo 15 ngày. Hai vợ chồng trình diện rồi đi tù 2 nơi. Bỏ lại đứa con gái đầu lòng 3 tháng cho mẹ già, nghĩ rằng độ một vài tuần sẽ trở về nuôi con.

Bà mẹ già nuôi cháu nhỏ 5 năm, mẹ Phượng mới được tự do về nhìn thấy mặt con. Lập tức sau ba tháng chuẩn bị, người thiếu phụ gốc Hà Nội, đem con ra Bắc thăm chồng. Tù đủ 10 năm, Đức được trả tự do. Gia đình HO qua Mỹ. Cô gái nhỏ đi Mỹ nay đã nên người. Tốt nghiệp đại học rồi thành hôn với anh chồng bác sĩ. Bà ngoại di cư nay không còn nữa, nhưng cụ đã để lại những hình ảnh gia đình đầy đủ. Một gia đình quân nhân hết sức lạc quan trong mọi hoàn cảnh. Hình đám cưới của mối tình Nam Bắc ở nhà thờ Đồng Tiến, Sài Gòn. Hình đám cưới của con gái tại Hoa kỳ. Hình chụp khi thăng cấp. Vợ Trung úy thì chồng Đại úy. Rồi chồng lên Thiếu tá, vợ lên Đại úy. Rồi hình Phượng thăng cấp Thiếu tá được gắn cấp bậc tại Quân đoàn III.

Báo cáo qua điện thoại, anh Đức nói rằng, niên trưởng biết không" Dẫn đầu đoàn nữ quân nhân trong phim duyệt binh 73 ở Sài Gòn là thiếu tá Phượng đấy. Còn hình cháu bé mới sanh thì bố mẹ đi tù. Hình cháu 5 tuổi mới gặp lại mẹ, và hình cháu tốt nghiệp, rồi hình đám cưới ở nhà thờ.

Khi đi tù, anh em hỏi Thiếu tá Đức sao vợ con không đi thăm. Vợ tao cũng ở tù, thiếu tá nữ quân nhân. Bà già nuôi cháu nhỏ. Tình Bắc duyên Nam. Cô Phượng từ Hà Nội di cư vào lấy chồng Nam kỳ. Rồi ở tù trong Nam. Anh Đức đi tàu sông Hồng chở tù ra Bắc, thăm quê vợ trên chuyến đi tưởng là vĩnh biệt.

  Bây giờ anh Đức làm thơ, cắt hình dán lên 3 tấm bìa để trình bày lại cuộc đời. Người ta thì 3 hình ảnh, 1 cuộc đời. Ở đây đầy đủ câu chuyện một gia đình mà có đến 2 cuộc đời. Hai tờ giấy ra trại để bên nhau. Bích Phượng, Bắc kỳ, tội Thiếu tá.  Luân Hữu Đức, Nam kỳ, tội Thiếu tá. Cả hai được Cộng sản phê rằng tư tưởng chưa có gì biểu hiệu xấu. Đã được cấp tiền đi đường về trình diện địa phương quản chế.

Ngày nay, tại Hoa Kỳ, quần áo, mũ nón tốt nghiệp cao học của đứa con xếp lại thật ngay ngắn. Bên trên là tờ giấy ra trại của cha mẹ. Giấy ra trại xấu xí lem nhem mầu vàng đất chính là vé đi vào Cõi Tự Do. Tất cả đều đóng khung đem triển lãm.

Những đứa cháu của chiến tranh và biển cả

Chị Hằng ở Milpitas khi được tin chúng tôi làm triển lãm đã có một sáng kiến hết sức đặc biệt. Là cô giáo tình nguyện tại Trường Việt Ngữ Về Nguồn, bèn cho đề tài các em thực tập bằng cách trình bày về gia cảnh trên một Poster. Cho dàn bài chỉ dẫn các em về tìm tòi và lựa chọn hình ảnh. Vào lớp làm tại chỗ trong 2 giờ đồng hồ. 10 tấm poster về cuộc đời của con cháu HO và thuyền nhân đã hoàn tất. Tài liệu triển lãm của thế hệ tương lai. Các em từ 10 đến 15 tuổi. Đây là hình cha, đây là hình mẹ. Cha, trước làm gì"  rồi đi tù, rồi vượt biên. Mẹ làm gì" Vượt biên hay ODP" Gặp nhau ở đâu" Tại sao lại có con ở đây" Rồi hình ảnh ngày nay. Hình ảnh xum họp một nhà. Có đứa dán hình ảnh bố mẹ lúc còn quá trẻ, trông như bạn bè. Có đứa không tìm được hình thì vẽ tranh tượng trưng. Tất cả đều viết bằng Việt ngữ để biểu diễn khả năng học hành và lấy điểm học tập. Toàn chuyện tù đầy, vượt biên đau thương, nhưng mầu sắc sao rực rỡ. Văn chương rất hồn nhiên và thực sự là sáng tác của các em. Chuyện gia đình họ Trần gặp họ Nguyễn. Bố gặp mẹ. Họ Vũ gặp họ Lê.

Nhà nào cũng phản ảnh những cuộc đời khó khăn vất vả, nhưng xem trên poster của các cháu thì cuộc sống được diễn tả rất đẹp đẽ  nhiệm màu. Cuộc đời tù của người cha, nhẹ như gió thoảng. Chuyện vượt biên của mẹ bình thường như đi du lịch. Hỏi cha, cha nói rằng ở tù đói lắm, không có cơm mà ăn. Ở đây thì con lại không chịu ăn cơm. Nhưng con lại mong được ở chỗ không phải ăn cơm. Hỏi mẹ vượt biên có chết không. Mẹ nói rằng vượt biên không chết. Nếu chết thì làm sao có con ở đây. Hỏi bà, thì bà nói khổ lắm con ơi. Rồi bà khóc. Khóc rồi thấy cháu hoảng sợ, bà lại cười. Không có chuyện gì nói thêm nữa. Các cháu dán hình thật đẹp và tô lên đủ mầu. Những poster của quá khứ đau thương trong tác phẩm của đứa nhỏ không có mầu đen. Đầy ánh sáng rực rỡ của một tương lai huy hoàng phía trước.

Chiến tranh, tù đầy, biển cả hãi hùng để lại phía sau thật xa.

Và đó cũng là mục đích của cuộc triển lãm hướng về niềm hy vọng đầy hứa hẹn của thế hệ tương lai.

Giao chỉ - San Jose

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.