Hôm nay,  

Cơ May Cuối Cùng Cho Ông John Mccain

10/30/200800:00:00(View: 17162)

 

Minh Thu

Trong sự nghiệp chính trị trải dài trên ba thập niên, xuyên qua nhiều cuộc vận động bầu cử thường xuyên, ông John McCain đã 'sống sót' để vượt qua nhiều tình huống bi đát nhất. Vào năm 2000, khi bạo gan tự mình ra ứng cử trong tư cách một chính trị gia độc lập kiểu "maverick", ông gây chưng hửng cho cả hệ thống chức quyền trong Đảng Cộng Hoà (vốn đầu tư mọi nỗ lực vào thống đốc George W. Bush) khi bất ngờ giành được thắng lợi to lớn trong cuộc bầu cử sơ bộ tại tiểu bang New Hampshire. Sự kiện này khiến cho ban tham mưu của ông Bush phải chú ý, và bộ máy tuyên truyền và vận động cực kỳ hữu hiệu của đảng liền được tung ra bằng mọi cách để triệt hạ cho bằng được lá bài McCain. Những đòn chơi bẩn tệ hại nhất đã được đem ra sử dụng bởi những thuộc hạ của ông Bush, nói xấu về tính tình (nóng giận bất thường của ông), đạo đức (có đứa con gái rơi gốc da đen) cũng như của bà vợ Cindy, và một loạt những tin đồn xấu xa tệ hại nhất được loan truyền rộng rãi đến cử tri. Đây là một trong những đòn chơi bẩn nặng nề mà anh em trong nhà của phe Cộng Hoà đã đối xử với nhau, khiến cho ông McCain giận ông Bush căm gan. Bởi vì hai ông bà McCain đã nhận một đứa con gái nuôi gốc Phi Châu từ tấm bé, nhưng lại được đồn đãi sai lạc và ác hại bởi bộ máy tuyên truyền tinh vi do phụ tá Karl Rove chủ đạo. Kết quả là ông McCain đã thảm bại ngay sau đó trong cuộc vận động tại tiểu bang South Carolina.

Vì căm giận những đòn chơi bẩn như vậy nên ông McCain không lấy gì làm hào hứng hay tích cực để ủng hộ chính quyền Bush trong những năm đầu. Ông luôn tìm cách chống đối những dự luật của TT Bush đề ra để chứng tỏ tinh thần 'maverick' của mình, không nhất thiết phải nghe theo lệnh lạc từ phía các lãnh tụ Cộng Hoà ở Quốc Hội hoặc Toà Bạch Ốc. Thí dụ điển hình là việc ông đả kích mạnh mẽ chính sách cắt thuế lớn lao của TT Bush. Trong thời gian này phe Cộng Hoà chiếm đa số tại Hạ Viện, nhưng ở Thượng Viện, tỉ lệ hai bên bằng nhau, và phe Cộng Hoà chỉ nắm quyền được là nhờ lá phiếu quyết định của PTT Dick Cheney. Những vị nghị sĩ Cộng Hoà thuộc phe ôn hoà dường như không được lắng nghe hay trọng vọng. Ba trong số những người này được phe Dân Chủ nhắm để dụ dỗ ngả về phía mình: đó là các nghị sĩ Jim Jeffords ở Vermont, Lincoln Chafee ở Rhode Island và John McCain ở Arizona. Về sau, chỉ có ông Jeffords bỏ hàng ngũ Cộng Hoà để trở thành độc lập, khiến cho phe Cộng Hoà mất quyền đa số trong một thời gian ngắn trong pháp nhiệm 2001-2003.

Nhưng ông McCain vẫn được coi là một nghị sĩ thuộc loại 'cứng đầu', ngang ngạnh chứ không thuộc loại dễ dàng thuần phục theo lệnh của cấp lãnh đạo đảng Cộng Hoà. Vì thế, ông được thiện cảm nhiều từ phía các nghị sĩ phe Dân Chủ. Trong mùa bầu cử năm 2004, thoạt đầu nghị sĩ John Kerry đã vận động đủ cách để năn nỉ, mời gọi người đồng viện John McCain cùng tham dự đứng phó trong liên danh với mình. Cả hai ông đều là cựu chiến binh, chiến đấu gan dạ tại chiến trường Việt Nam, cùng coi như là bạn bè và nể phục lẫn nhau. Chính ông McCain là người đã bênh vực mạnh mẽ cho ông Kerry trước những đòn tấn công 'chơi xấu' của nhóm Swift Boat Veterans do phe Cộng Hoà tung ra để mong làm giảm uy tín ông Kerry. Nhưng, trong một toan tính chiến lược, ông McCain cho rằng ông Bush có thể là một tổng thống khá hơn ông Kerry, và do đó ông đã quyết định ủng hộ TT Bush, mặc dù sự hợp tác giữa hai người có vẻ như rất gượng gạo.

Sau đó, ông cũng thay đổi thái độ, trở thành bảo thủ hơn vì mong muốn nhận được sự ủng hộ từ khối này cho cuộc bầu cử sơ bộ tương lai vào năm 2004. Ông quay ngược lại lúc trước, tuyên bố ủng hộ các kế hoạch cắt thuế của TT Bush mà ông đã chỉ trích mạnh mẽ lúc trước. Ông cũng trở thành một trong những tiếng nói ủng hộ mạnh mẽ đường hướng "diều hâu" liên quan đến cuộc chiến tại Iraq. Ông không còn nuôi dưỡng hình ảnh ôn hoà hay độc lập kiểu "maverick" nữa, sẵn sàng lên tiếng ủng hộ các cương lĩnh hay đề tài ăn khách của phe cực hữu, như việc cho rằng ông ủng hộ việc Tối Cao Pháp Viện có thể lật ngược lại án lệ không ngăn cấm quyền phá thai, thường gọi là án lệ Roe versus Wade, được coi như là chuẩn mực cân bằng cho quyền tự do của phụ nữ. Một số thành phần cực đoan trong phe Cộng Hoà luôn luôn muốn lật ngược án lệ này, có hiệu lực từ năm 1973. Nhưng phe Dân Chủ và đa số người dân tại Hoa Kỳ đều không đồng ý việc áp đặt luật pháp cấm phụ nữ được quyền phá thai. Việc bỏ phiếu chọn tổng thống có ảnh hưởng lâu dài và quan trọng nhất là trên lãnh vực tư pháp, qua việc vị tổng thống sẽ bổ nhiệm những thẩm phán khuynh hữu hay khuynh tả.

Nhờ vậy, ông McCain bớt bị chống đối bởi phe bảo thủ cực hữu trong đảng Cộng Hoà, và được coi như là một trong những ứng viên sáng giá để chuẩn bị cho mùa vận động bầu cử tổng thống năm 2008. Hai nhân vật nổi tiếng khác là cựu thống đốc Mitt Romney và cựu thị trưởng thành phố Nữu Ước Rudolph Giuliani, cũng đều có những khiếm khuyết về đời sống cá nhân (như ly dị, ủng hộ đồng tính và phá thai) gây khó chịu cho giới cử tri cực hữu này. Nhưng đến mùa hè năm 2007 thì bộ máy vận động tranh cử của ông McCain đột ngột gặp trở ngại lớn, tưởng như sập tiệm, phần lớn vì đã chi tiêu quá nhiều nhưng cũng không đạt được thành tích khả quan giúp ông vượt trội hơn những đối thủ kia. Thêm nữa, trong nội bộ lại có lủng củng trầm trọng. Ông McCain buộc lòng phải sa thải những phụ tá cao cấp nhất, khiến cho đa số các nhân viên khác cũng đồng loạt rút lui. Chiến dịch tranh cử của ông McCain đã bị hầu hết các chuyên gia cũng như các cơ quan truyền thông thời ấy đánh giá là đang trong giai đoạn hấp hối (life support), nếu không muốn nói là trước sau gì cũng tiêu tùng. Đàn em bỏ rơi, quỹ vận động hao hụt, người cổ động ủng hộ tiền bạc tránh né, ông McCain chỉ còn dùng chính ý chí và khả năng của cá nhân ông để tiếp tục lê la khắp chốn, kéo dài giấc mộng lớn. Thay vì được tiếp tục "tiền hô hậu ủng", đi máy bay riêng để vận động và gây quỹ khắp nơi, ông McCain đành phải đi máy bay dân sự như mọi người dân khác, và phải tự mình xách hành lý cá nhân.

Ấy vậy mà ông vẫn cầm cự và sống sót, mặc dù không có dư dả hoặc quyên góp được gì nhiều, cho đến khi mùa bầu cử sơ bộ mở màn, phần lớn nhờ ở sự kiện bên đảng Cộng Hoà không có khuôn mặt sáng giá nào nổi bật để thu hút sự hưởng ứng của đa số cử tri bảo thủ. Mỗi người chỉ chiếm được một khối cử tri riêng biệt ủng hộ, và cũng có một số lớn thành viên khác trong đảng chống đối. Vì thế cho nên ông cầm cự được ở kỳ bầu cử đầu tiên ở tiểu bang Iowa, và rồi bất ngờ giành được chiến thắng ở kỳ bầu cử thứ hai tại tiểu bang New Hampshire, giống như bốn năm về trước, có lẽ nhờ ở số cử tri ôn hoà và độc lập chiếm tỉ lệ khá đông tại đây, do đó không nhiều thì ít, cũng dễ có cảm tình với những ứng viên tương đối ôn hoà như ông McCain. Chiến thắng này giúp hồi sinh lá bài McCain, để rồi sau cùng đem về chiến thắng vinh quang khi lần lượt những tên tuổi khác phải rút lui vì nhiều lý do khác nhau.

Nhưng giờ đây thì triển vọng thành công của ông trong cuộc bầu cử sắp tới rất mong manh. Gần như tất cả những cuộc thăm dò dân ý của các cơ quan truyền thông uy tín đều đưa ra những con số rất bất lợi cho ông McCain, luôn luôn thua đối thủ từ 3 đến 10 điểm. Đại đa số các tờ báo lớn và uy tín trên nước Mỹ đều đưa ra các bài xã luận ủng hộ ông Obama, đồng thời chê bai ông McCain trên nhiều phương diện, và nặng nề nhất là chi tiết lựa chọn bà Sarah Palin đứng phó, được mọi người đánh giá là một quyết định táo bạo nhưng cẩu thả, chứng tỏ sự thiếu cân nhắc và phán đoán bồng bột và nông nổi của ông McCain, không xứng đáng để nhận sự tín nhiệm vào chức vụ nguyên thủ quốc gia. Giờ đây chỉ còn có hơn hai tuần lễ nữa, liệu ông McCain có thể nào lật ngược được thế cờ hay không" Câu trả lời có lẽ là không, trừ phi có một phép lạ (nếu như số ông McCain đã được chọn làm tổng thống) hoặc là một biến cố bất ngờ và kinh khủng có thể xảy ra vào những giờ phút chót. Chẳng hạn như một cuộc hành quân nào đó ở chiến trường A Phú Hãn hay Hồi Quốc (Pakistan) bỗng bất ngờ bắt được hay hạ sát toàn bộ tham mưu đầu não với các khuôn mặt như Osama bin Laden và Al Zawahiri của tổ chức al-Qaeda" Hoặc một vụ khủng bố kinh thiên động địa nào có thể tạo chấn động tâm não của đa số dân Mỹ khiến nhiều người phải lo sợ"

Dĩ nhiên, nhiều chuyên gia sẽ nhắc nhở rằng kết quả các cuộc thăm dò dân ý chỉ có giá trị vào cái ngày người dân được hỏi ý kiến, và ý dân có thể thay đổi từng ngày một. Chỉ có cuộc thăm dò dân ý sau cùng, vào đúng ngày bầu cử, tức là cuộc kiểm phiếu lựa chọn của cử tri trong ngày này mới có giá trị quyết định. Ấy là người ta còn chưa biết đến nhiều yếu tố khó tiên đoán trước, chẳng hạn như mức chịu khó đi bầu (turnout) của giới trẻ và giới bình dân gốc da đen sẽ ra sao trong ngày đó. Đây là hai thành phần ủng hộ mạnh mẽ nhất cho ông Obama, nhưng cũng lại là những thành phần lười đi bỏ phiếu nhất từ trước tới nay. Rồi cũng còn phải để ý đến một chuyện quan trọng khác, thường gọi là "Bradley effect", tức là một sự kỳ thị ngầm không biểu lộ ra ngoài có thể khiến nhiều người lầm lẫn khi coi kết quả các cuộc thăm dò dân ý. Chi tiết này nhắc đến việc ông Tom Bradley gốc da đen của đảng Dân Chủ, một chính trị gia tài ba, đức độ và dễ mến có lẽ còn nhiều hơn cả ông Obama, từng là thị trưởng Los Angeles, thành phố đông dân lớn thứ hai trên nước Mỹ. Trong lần ra tranh cử thống đốc tiểu bang California vào năm 1982, hầu hết các cuộc thăm dò dân ý đều cho thấy ông dẫn trước đối thủ George Deukmejian, một người Mỹ trắng của phe Cộng Hoà. Ấy vậy mà đến giờ phút cuối đếm phiếu, ông Bradley lại thua khít khao. Điều này cho thấy là có thể nhiều người khi được phỏng vấn thì nói rằng mình sẵn sàng bỏ phiếu cho ứng viên da đen (vì không muốn bị chỉ trích là kỳ thị), nhưng khi bước vào phòng phiếu một mình thì sẽ chọn lựa theo ý riêng thật sự của mình.

Tuy vậy, lần này những yếu tố trên có thể sẽ giảm bớt một phần nào số phiếu ủng hộ cho ông Obama nhưng sẽ không đủ để đem lại chiến thắng cho ông McCain, nhất là nếu người ta tính toán về cuộc tranh tài này không phải trên số phiếu phổ thông (popular vote) ủng hộ của người dân mà là trên cuộc chiến giành phiếu cử tri đoàn (electoral votes) tại khắp 50 tiểu bang. Sự kiện ông McCain vào những giờ phút này còn phải vất vả và tốn kém để tiếp tục vận động tại nhiều tiểu bang đã bỏ cho ông Bush vào năm 2004 để khỏi lọt sang phía ông Obama, cho thấy là ông sẽ mất mát từ ít đến nhiều con số phiếu cử tri đoàn quan trọng đó, và như thế sẽ chuốc lấy thất bại. Đó là các tiểu bang như Iowa, Indiana, Missouri, Ohio, Florida, Virginia, New Carolina, Georgia, Colorado, Nevada, New Mexico, và tại tất cả các nơi này, ông McCain đều thua hoặc chỉ gần cầm cự ngang hàng. Trong khi đó, phe ông McCain cũng chỉ mong cố gắng vận động tại vài tiểu bang bỏ phiếu cho phe Dân Chủ  vào năm 2004, đó là Pennsylvania, Wisconsin, Minnesota, New Hampshire, để hy vọng mong manh rằng có thể thắng được và bù lại mất mát ở các tiểu bang mầu đỏ. Tuy vậy, cuối cùng đó cũng chỉ là sự vô vọng vì thống kê cho thấy là ông vẫn thua tại các tiểu bang này.

Nhưng còn nước thì còn tát, ông McCain dẫu sao cũng chẳng có gì mất mát, nếu như chịu nhìn lại tình cảnh vào cuối năm 2007, không ai dám nghĩ rằng ông có thể cầm cự đến ngày nay, kể ra cũng là vinh hạnh chán. Trong kỳ bầu cử năm 1980, ông Reagan thua TT Carter 8 điểm khoảng 10 ngày trước khi bầu cử diễn ra. Do đó, chuyện gì cũng có thể xảy ra. Hơn nữa, những kết quả của bà Hillary Clinton vào giai đoạn chót của mùa bầu cử sơ bộ năm nay -- khi mọi người đều cho rằng ông Obama đang trên đà tất thắng nhưng giờ chót bà Clinton lại thắng lớn ở nhiều nơi như Ohio, Pennsylvania, Indiana, West Virginia -- cho thấy là phía ông McCain có thể làm xẹp quả bóng thổi phồng sự ủng hộ ông Obama nếu như người ta biết tìm ra những cây kim cũng như nơi nào để chích cho nó hiệu quả.

Tuần báo The Economist, một tạp chí uy tín ở Anh thuộc khuynh hướng bảo thủ nhưng cũng phải công nhận rằng ông Obama nhiều phần sẽ thắng cuộc, cũng đã cố gắng đưa ra những đề nghị để giúp đỡ cho bộ tham mưu của ông McCain. Trước hết, họ khuyên là ông McCain nên vứt bỏ đi chiến thuật tấn công hiện nay để mong làm giảm giá hay uy tín của ông Obama như những lời tố cáo của bà Sarah Palin nói rằng ông Obama "bồ tèo" với quân khủng bố. (Dường như những luận điệu loại này lại được phổ biến rộng rãi trên Internet trong cộng đồng người Việt trong phe những người chê Obama, có khi lại còn "bảo hoàng hơn vua" khi kết tội là ông theo đạo Hồi-giáo). Tờ The Economist cho rằng chiến thuật này bị "backfire" rồi, tức là bị "ép-phê-ngược", và do đó ông McCain cần phải vứt bỏ nó đi. Giá mà ông còn có thì giờ để vứt bỏ luôn đi bà Palin, nếu như có thể được, thì cũng nên làm, theo như lời khuyên của tờ The Economist, vì nó cho thấy là ông xem thường sự phán đoán và trí thông minh của đa số người dân ở Hoa Kỳ. Không phải là không có lý do khi người Mỹ thích dùng từ ngữ "dumb blonde" để phê phán về những phụ nữ có nhan sắc bắt mắt nhưng thật ra trống rỗng trong đầu óc và kiến thức, tuy rằng bà Palin chưa đến nỗi tệ như vậy, nhưng chắc chắn là chưa đủ để tín nhiệm vào vai trò phó tổng thống, theo ý kiến của đa số dân chúng, trong đó có rất nhiều chuyên gia và các tay bỉnh bút bảo thủ nổi tiếng như George Will, David Brooks, Charles Krauthammer, Kathleen Parker. Nếu như liên danh McCain-Palin có bị lên án bởi những tiếng nói cấp tiến như Maureen Dowd, Frank Rich, Bob Herbert thì cũng không đáng để ý, nhưng khi bị chỉ trích nặng nề bởi những nhà báo bảo thủ như trên thì mới là điều khiến người ta phải chú ý vì sao mà họ phải giận dữ để công kích những người cùng ý thức hệ với mình.

Theo tờ The Economist thì ông McCain có thể tấn công ông Obama ở ba điểm sau, tương đối sẽ có nhiều người nghe hơn, và may ra có thể thuyết phục phần nào lý do nên bỏ phiếu cho ông thay vì cho đối thủ Obama. Đó là các điểm:* Chỉ trích đối thủ Obama không phải là một chính trị gia ủng hộ cho các chính sách cởi mở hay thân thiện cho ngành kinh doanh. Giống như cựu tổng thống Mỹ Calvin Coolidge đã từng nói, cái mạnh của Hoa Kỳ là ở lãnh vực kinh doanh (business). Ông Obama chỉ làm việc một thời gian ngắn khoảng 1 năm cho một hãng tư vấn có tên là Business International, rồi sau đó quay sang làm các công tác giúp đỡ cộng đồng, hoặc dạy học và nhảy vào chính trị. Hơn nữa, cả hai ông Obama và ứng viên đứng phó Joe Biden đều là thân thiết với hai nhóm gây khó khăn cho giới kinh doanh nhất: đó là luật sư, và các nghiệp đoàn. Cả hai vợ chồng ông Obama cũng đều là luật sư. Các nghiệp đoàn thì coi như lúc nào cũng đứng về phía đối nghịch với chủ nhân kinh doanh. Họ mong cho ông Obama thắng để mong đẩy mạnh những chính sách hỗ trợ mạnh mẽ cho việc thiết lập nghiệp đoàn tại khắp nơi, và do đó đã không ngần ngại chi ra khoảng 200 triệu Mỹ-kim trong kế hoạch giúp cho ông Obama thắng cử.

* Cảnh báo cho người dân thấy sự rủi ro cao một khi cả chính quyền (hành pháp lẫn lập pháp) đều nằm trong tay của một đảng, dễ đi đến những tình trạng thái quá. Thí dụ điển hình nhất là trường hợp của 6 năm đầu dưới TT Bush với Quốc Hội theo phe Cộng Hoà. Trong kỳ bầu cử sắp tới này, nhiều phần là phe Dân Chủ sẽ chiếm thêm từ 15 đến 20 ghế dân biểu, khiến cho đa số càng mạnh hơn ở Hạ Viện. Trên Thượng Viện, phe Dân Chủ cũng chiếm thêm, ít nhất là từ 4 đến 5 ghế, và có thể lên đến 8 hay 9 để chiếm đa số 60 nghị sĩ, đủ sức cho đảng này khống chế tại Quốc Hội theo ý mình. Trong trường hợp đó, chỉ còn có ngành tư pháp với Tối Cao Pháp Viện là không thuộc quyền phe Dân Chủ. Thông thường, đa số người dân Mỹ không chuộng lắm tình trạng một đảng cầm quyền, muốn cho hai đảng cầm chân lẫn nhau, theo truyền thống lâu đời thường thấy rất hiệu quả là  "checks and balances". Ông McCain có thể khoe rằng với thành tích lâu năm ở Quốc Hội, ông đã từng nhiều lần cộng tác chung với nhiều vị dân cử khác nhau, từ cực tả sang cực hữu. Do đó, ông sẽ không gặp khó khăn để làm việc này mỗi khi cần phải giải quyết những tình trạng khó khăn, lúc cần thì cương quyết chống lại Quốc Hội để bảo vệ lập trường, nhưng có những lúc khác thì cũng sẵn sàng hợp tác với phe đối lập để thông qua những đạo luật có lợi chung cho cả nước.

* Sau cùng, ông McCain có thể chỉ ra rằng ông Obama chưa bao giờ dám lên tiếng chỉ trích hay chống lại một nhân vật uy quyền hay có nhiều "thần thế" bên đảng Dân Chủ. Tại nơi xuất thân ở Chicago, ông cư xử hiền hoà với mọi thành phần trong đảng, từ những tổ chức nghiệp đoàn giáo chức cho đến các viên chức chính quyền trong bộ máy công quyền của giòng họ Daley (cha con từng làm thị trưởng thành phố). Tại Thượng Viện, ông bỏ phiếu đúng theo chiều hướng của đảng Dân Chủ đến gần như 97%, và thường bị chỉ trích về thành tích rất phóng khoáng này. Thông thường, một vị tổng thống theo đảng Dân Chủ dù có kinh nghiệm lão làng trên chính trường nhiều khi cũng khó kềm chế được một đa số cùng đảng đang nắm quyền ở Quốc Hội. Một tổng thống "tân binh" như ông Obama nhiều phần là sẽ khó có can đảm đi ngược lại với phe đa số cùng đảng của mình, và như thế sẽ không dám hành xử cái quyền hành độc lập của mình.     

Dĩ nhiên, những kế hoạch này không chắc sẽ cải thiện được tình thế, nói chi đến việc đem lại chiến thắng. Cái lời kêu gọi "Hãy bầu cho tôi bằng không thì chính phủ này sẽ bị tràn ngập bởi phe Dân Chủ" xem chừng như cũng không lấy gì làm hay ho, đặc sắc, gây nức lòng cho nhiều người. Nhưng dẫu sao nó cũng khá hơn những chiêu bài khác mà ông đã đem ra sử dụng. Và trớ trêu hơn nữa, dường như nó là giải pháp duy nhất có thể đánh bóng cho hình ảnh của ông McCain được sáng giá thật sự trở lại.

Minh Thu

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.