Hôm nay,  

Tĩnh Lặng Vô Ngôn

17/01/200900:00:00(Xem: 7287)
TĨNH LẶNG VÔ NGÔN
Hạnh Chi
Bất cứ hành giả nào đọc, hay học qua kinh Duy Ma Cật, dù hiểu cạn hay sâu, ít nhất cũng có cảm nhận về cuốn kinh đại thừa này qua cái nhìn chung là "Tĩnh lặng vô ngôn. Tịch nhiên bất động."
Quả thật, toàn bộ cuốn kinh không trang nào không phảng phất làn hương trầm Bát Nhã của chiều sâu tâm thức. Ngay cả những cuộc viếng thăm  đông đảo của hàng Bồ Tát hay cảnh rực rỡ khi thiên nữ rải hoa vẫn biểu hiện cái uyên nguyên cực kỳ tĩnh lặng của "tâm không dính cảnh, dù cảnh chẳng rời tâm".
Mỗi khi chợt nghĩ đến Thầy, lòng tôi lại rộn lên niềm hạnh phúc của phút sơ tâm khi học kinh Duy Ma Cật, cái sơ tâm của trẻ con khi cố tìm ra lý luận để phản bác người lớn.     
Tôi không thoải mái chút nào khi kinh trình bày một người cư sỹ trí tuệ đến mức các đại đệ tử của Phật đều không dám đến gặp. Rồi khi ngài đệ nhất trí Văn Thù Sư Lợi đồng ý đi thăm bệnh Duy Ma Cật, đối đáp cùng nhau, đến chương cuối, trưởng giả hỏi các vị Bồ Tát thế nào là vào cửa Bất Nhị thì tôi chẳng thể đồng ý với ngài Văn Thù Sư Lợi chút nào!  
Có bị phạt quỳ hương hết bó nhang tôi cũng không nói khác được!
Làm sao mà sau khi nghe đủ hơn ba mươi vị Bồ Tát trả lời "Thế nào là vào cửa pháp Bất Nhị"", đến cuối cùng, ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi trưởng giả Duy Ma Cật thì lại chỉ nhận được sự im lặng" Ấy thế mà cái sự im lặng đó lại được ngài Văn Thù tán thán: "Lành thay! Lành Thay! Cho đến không còn văn tự và ngôn thuyết mới thật là vào cửa Bất Nhị!"
Tới đây, tôi đã khởi ý nghi ngài Văn Thù Sư Lợi không công bằng cho lắm!       
Không biết vào thời mạt pháp này ngài có còn thỉnh thoảng hiện thân hành khất trên Ngũ-Đài-Sơn hay không" Nếu biết chắc ngài còn thương tưởng chúng sanh mà hóa hiện, tôi sẽ không quản ngại xa xôi, sẽ trèo đèo lội suối tới dẫy núi huyền bí kia, chờ gặp được ngài để bộc bạch nỗi ấm ức của mình.
Tất nhiên, tôi chẳng bao giờ có nổi cơ hội này.
Nhưng may quá, sau một lần nhập thất, thầy Tuệ Sỹ đã giải thoát cho tôi ra khỏi nỗi buồn tưởng là thiên thu bất tận này.
Lần nhập thất đó Thầy đã hoàn tất "Huyền thoại Duy Ma Cật", trong đó, ở chương "Cửa Vào Bất Nhị", Thầy đã nhẹ nhàng đặt bút:
"Trong đối thoại về Bất Nhị môn này, sự im lặng của Duy Ma Cật được nhận thức là cao nhất, là diễn tả tuyệt vời nhất về Bất Nhị. Nhưng, nhìn từ một hướng khác, nếu không có minh giải từ Văn Thù thì sự im lặng của Duy Ma Cật trở thành vô nghĩa! Cho nên, điều vi diệu ở đây là nói lên được cái không thể nói. Trước, sự  im lặng của Duy Ma Cật là diễn đạt của Văn Thù. Sau, sự im lặng của Duy Ma Cật cũng là sự diễn đạt của Văn Thù. Cả hai, Thánh-mặc-nhiên và Thánh-ngôn-ngữ đều cùng hiển thị một thực tướng duy nhất, là thực tướng ly ngôn…"
Thì ra, trưởng giả Duy Ma Cật tuy dùng sự im lặng, nhưng cũng phải có cái hữu-tướng mới có thể trình bày được cái vô-tướng; cũng như Văn Thù Sư Lợi, đã dùng ngôn-ngữ để giãi bày cái vô-ngôn.

Chúng sanh vô minh này xin sám hối cùng đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Con xin cảm tạ Thầy Tuệ Sỹ.
Thầy lại vừa nhập thất.
Không biết lần này Thầy nhập thất bao lâu nhưng tôi biết, từ nhiều thập niên, Thầy chỉ dùng bữa trưa với lưng chén cơm đạm bạc, sau đó, không gì thêm ngoài nước trà, cho đến trưa hôm sau. Ngay cả khi tứ đại bất an, chúng tôi xin Thầy dùng chút sữa thì Thầy nhẹ nhàng từ chối: "Sức khỏe tui, tui biết, các anh các chị làm sao biết được".     
Thế là huynh đệ chúng tôi có xót xa cũng đành mượn cách trả lời vào cửa Bất Nhị của Duy Ma Cật là im lặng!
Lần này, tôi may mắn được Thầy giảng giải cho dăm điều thắc mắc trong kinh Trường-A-Hàm trước khi nhập thất, vì sau đó, Thầy sẽ cắt đứt mọi thông tin, chỉ có thị giả là mỗi ngày còn được gặp Thầy dăm phút khi đưa cơm mà thôi.
Tôi đã về tới đường hẻm đó, đã bước lên những bực thang xi măng buốt lạnh dẫn tới hành lang heo hút đó, đã thấy căn phòng làm việc đơn sơ với chiếc võng con, bàn viết nhỏ, máy vi tính cũ kỹ và một kệ sách. Nơi ấy, từ nhiều thập niên qua, Thầy đã là biểu tượng của "Tĩnh lặng vô ngôn. Tịch nhiên bất động". Hoa thơm rải tới, hay bùn đất tạt vào cũng chỉ được đáp lại bằng tiếng gió lao xao thổi nhẹ qua những giò phong lan.
Phải chăng đó là hữu-tướng hiển bày vô-tướng, là hữu-thanh truyền đạt vô-thanh; như mặt trăng tịnh nhiên bất động giữa hư không nhưng ánh trăng vẫn tỏa chiếu muôn sông, muôn suối. Nơi nào nước trong sẽ thấy trăng tỏ, nơi nào nước đục sẽ chỉ thấy trăng mờ.
Những bài học bằng thân-giáo như vậy chẳng phải thời nào cũng có, nếu thế gian không quá đảo điên trầm thống; chén cơm cam lộ được xông ướp bằng hương đại bi của Như Lai từ cõi Phật Hương Tích chẳng phải thời nào cũng ban phát, nếu cơ duyên không tựu thành pháp hội Yêm-la.
Khó đến thế nhưng chẳng là thất vọng vì: "Pháp-thân vốn vô tướng  nhưng lại ứng hiện theo từng hình tướng đặc thù. Vần điệu chí cao thì vẫn không lời mà thư tịch huyền vi khắp nơi quảng bá" (*)  
Thầy đang nhập thất.
Thị-Ngạn-Am vẫn đó, gần, thật gần.
Nhưng những gì Thầy cưu mang và ấp ủ từ am thất nhỏ bé đó, đã và đang đi xa, thật xa. Từng đêm "Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn"(+)  đã hoàn tất những quà tặng đẹp đẽ cho đời, từ sáng tác tới dịch thuật. Đó là những trang cảo thơm Thắng Man Giảng Luận, Tô Đông Pha-Những Phương Trời Viễn Mộng, Giấc Mơ Trường Sơn, Trường-A-Hàm, Trung-A-Hàm, Tạp-A-Hàm, tuyển tập Nikàya A-Hàm, Triết Học Tánh Không, Thành Duy Thức Luận, Thiền Luận, Ngục Trung Mị Ngữ, Huyền Thoại Duy Ma Cật ..v…v..
 Mới hay, phương tiện được nhìn qua lăng kính Cư-trần-lạc-đạo có vẻ đơn giản nhưng thật ra chẳng đơn giản chút nào!
NAM MÔ CÔNG ĐỨC LÂM BỒ TÁT.
NAM MÔ ĐẠI TRÍ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT.
Hạnh Chi
(Độc-Cư-Am, tháng giêng 2009)
(*) Tăng Duệ, tựa kinh Duy Ma Cật
(+) Thơ TS

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.