Hôm nay,  

Đánh Và Đàm

17/05/200800:00:00(Xem: 10717)

Nhưng đánh ai và đàm cái gì" Nhân dịp kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Quốc gia Israel, hôm Thứ Năm 15, Tổng thống George W. Bush đọc một bài diễn văn trước Quốc hội Israel để chào mừng dân Do Thái. Bài diễn văn lập tức được Nghị sĩ Barack Obama khai thác ở nhà cho nhu cầu tranh cử.

Trong bài diễn văn tại Jerusalem, ông Bush nhắc tới kinh nghiệm lịch sử tại Âu châu - khi người ta nhượng bộ chế độ Đức quốc xã của Hitler và gây ra thảm kịch sau đó - để khẳng định rằng không thể đàm phán thương thảo với quân khủng bố hay các chế độ hung đồ. Ông còn nhắc tới lời phát biểu của một Nghị sĩ thời ấy, khi quân phát xít Đức tấn công Ba Lan năm 1939, rằng "Lạy Chúa, phải chi mà tôi được nói chuyện với Hitler thì có lẽ mình đã có thể tránh được những chuyện này!"

Ban tranh cử của Obama bắt lấy lời phát biểu ấy để tri hô rằng ông Bush ám chỉ lập trường thương thảo của Obama. Hôm sau, Nghị sĩ này còn nhấn tới và đả kích cả chính quyền Bush với Nghị sĩ McCain. Chúng ta có thể kết luận rằng Obama tự coi mình là cái rốn của vũ trụ, bất cứ ai nói gì cũng có thể bị xuyên tạc thành lời đả kích cá nhân ông. Cần thiết trong tranh cử, mà rất non! Ôbama rất vần với Ô Ba Hoa và ô hô ai tai.

Xin đi lại từ đầu trước khi đi vội về sau.

Trong bài diễn văn tại Israel, ông Bush nhắc tới lập trường của một Nghị sĩ Hoa Kỳ. Nếu chịu khó quên mình một chút để tham khảo lịch sử, Obama phải biết Nghị sĩ đó là William Edgar Borah của tiểu bang Idaho. Ông Borah này không là một chính khách Dân Chủ, mà thuộc xu hướng cấp tiến của đảng Cộng Hoà và chủ trương "tự cô lập", tương tự như Dân biểu Ron Paul ngày nay của đảng Cộng Hoà. Borah cho rằng Hoa Kỳ không nên can thiệp vào chuyện thiên hạ mà chỉ nên bảo vệ quyền lợi của mình. Hai chục năm trước, vào năm 1919, ông Borah này là người phá hoại kế hoạch thành lập Hội Quốc liên của Tổng thống Woodrow Wilson. Cũng vì thế mà Liên hiệp quốc xuất hiện trễ mất mấy chục năm. Và thế giới bị thảm cảnh Thế chiến II.

Trước Quốc hội Do Thái, Tổng thống Mỹ không tiện nói đến lập trường thỏa hiệp của Thủ tướng Anh Neville Chamberlain với chế độ Đức quốc xã - một lập trường mà các sử gia về sau cho rằng dẫn tới hậu quả là khuyến khích tội ác của Hitler. Ông Bush phê phán lập trường của một chính khách Mỹ, và một chính khách trong đảng Cộng Hoà của mình. Ai bảo là tay cao bồi Texas này thiếu tế nhị đâu"

Nhưng, Obama vẫn cố vơ vào để cùng lúc tấn công cả Chính quyền Bush lẫn đối thủ McCain, và tự soi đèn vào mặt để đẩy Hillary Clinton vào bóng tối.

Nếu nhìn sâu xa hơn nữa, ta có thể nghi ngờ khả năng lãnh đạo của Obama, chẳng vì lập trường chủ hòa, phản chiến, hoặc nhu nhược mà vì dường như tay ba hoa này không hiểu gì về một quy luật cơ bản của Hoa Kỳ trong thời chiến. Đó là quy luật đánh và đàm....

Mọi cuộc chiến tranh đều phải kết thúc, và thường kết thúc bằng giải pháp chính trị, một kết quả của tiến trình vừa đánh vừa đàm. Vấn đề là đánh với ai và đàm phán về chuyện gì, hầu đạt mục tiêu chính trị là chấm dứt chiến tranh trong thế mạnh, hoặc ít tệ nhất.Chúng ta trở lại chuyện ngày nay, Iraq... và tiết mục đánh đàm.

Sau khi đảng Cộng Hoà thất cử và mất đa số tại Quốc hội vào cuối năm 2006, Chính quyền Bush lập tức thay đổi chiến lược. Bush đề nghị dồn quân đánh tới. Người ủng hộ quyết định ấy là Nghị sĩ John McCain sau nhiều năm phê phán Chính quyền về cách thức tiến hành cuộc chiến tại Iraq. Đại tướng David H. Petreaus, một viên tướng dày kinh nghiệm về chiến tranh nổi dậy và phá hoại, được giao phó nhiệm vụ thi hành chiến lược mới, trước sự hoài nghi của đại đa số dư luận. Kết quả ngày nay đã rõ ràng là tình hình Iraq có cải thiện, số tổn thất có giảm và chính quyền Iraq đang thoát xác để có thể đảm nhiệm vai trò lãnh đạo của mình. Giao tranh tại Basrah hay trong khu vực Sadr City của Baghdad càng minh chứng điều ấy, chứ không phải ngược lại, rằng Iraq thêm loạn và không thể ổn định cho Mỹ sớm rút quân như ông Bush đã hứa hẹn và nêu ra từ ngày 10 tháng Giêng năm ngoái khi đề nghị dồn quân đánh tới.

Sự tiến bộ tại Iraq mà một minh diễn của "quy luật đánh-đàm" và 10 năm sau khi đưa quân vào đây, Hoa Kỳ sẽ có thể rút trên thế mạnh, là lý luận của McCain.

Hãy cùng tìm hiểu sự việc đó. Tại Iraq, dân Shia đa số chưa hề có kinh nghiệm hay khả năng lãnh đạo vì xứ này nằm dưới sự thống trị của thiểu số Sunni và đảng Baath của Saddam Hussein. Tình hình trở thành hỗn loạn trong năm 2005 và suy đồi trong năm 2006 vì hai phe Sunni và Shia xung đột với nhau, do đòn khiêu khích của al-Qaeda - khủng bố xưng danh "Thánh chiến" sinh sống trong cộng đồng Sunni - do hoạt động phá hoại của phe Sunni chống Mỹ và do sự xúi giục cộng đồng Shia của Iran.

Khi dồn quân đánh tới từ mùa Xuân năm ngoái, Tướng Petreaus nhắm vào một mục tiêu chính trị: chứng minh với các lãnh tụ Sunni quyết tâm của Mỹ là sẽ không tháo chạy mà truy lùng khủng bố tới cùng. Lồng bên dưới là những hứa hẹn - chính trị - với các lãnh tụ Sunni lẫn đảng viên đảng Baath, rằng Hoa Kỳ sẽ hợp tác với họ để thứ nhất diệt trừ al-Qaeda và thứ hai, đảm bảo cho dân Sunni một vị trí vững mạnh hơn trong tương lai của Iraq.

Chiến dịch dồn quân đánh tới vì vậy là đánh với al-Qaeda để thuyết phục dân Sunni và hợp tác với các lãnh tụ Sunni để nói chuyện phải quấy với cộng đồng Shia và Iran ở đằng sau.Đây là một sự đảo ngược lập trường đáng kể của Hoa Kỳ sau khi vào Baghdad lật đổ chế độ Sunni của Saddam Hussein và giải tán đảng Baath. Nói cho rõ hơn, Mỹ dồn quân đánh tới để đàm phán với đối thủ cũ là các lực lượng Sunni. Không có 15 lữ đoàn tác chiến được tung vào những vùng xôi đậu trong cộng đồng Sunni, việc đàm phán không thành. Chiến lược dồn quân đánh tới đã có kết quả vì việc đàm phán ấy với các lãnh tụ Sunni, và cả đảng viên đảng Baath, nay sẽ được phục hồi tư thế trong một chính quyền của quốc gia Iraq - không cỏn nguy cơ al-Qaeda.

Lập trường chính thức của Chính quyền Bush vẫn là không nói chuyện hay tương nhượng quân khủng bố. Lập trường ấy vẫn có vẻ như không thay đổi vì al-Qaeda bị đánh rát và bị tê liệt dần nhờ thông tin tình báo do cộng đồng Sunni cung cấp, ngày một nhiều hơn và chính xác hơn.

Nhưng, lồng bên dưới chiến lược đó là việc Hoa Kỳ có nói chuyện và tương nhượng với đối thủ cũ là các nhóm dân quân Sunni và tàn dư của lực lượng Baath. Mà sở dĩ đàm phán với họ là để có thế mạnh khi cần nói chuyện lợi hại với cộng đồng Shia và các giáo chủ Tehran. Và đàm phán thành công chính là nhờ dồn quân đánh tới. Cũng nhờ vậy, Iran lập tức dịu giọng từ đầu năm ngoái và bắt đầu mặc cả để đàm phán với Hoa Kỳ. Cuộc đàm phán thứ tư đã bị tạm hoãn - như trong mọi cuộc mặc cả. Nhưng nếu Mỹ không có chiến lược dồn quân đánh tới, không đạt sự hợp tác của các lãnh tụ Sunni và cả sự liên minh của Mỹ với các chế độ Á Rập Sunni trong khu vực, và đề nghị hòa giải giữa Israel với Palestine - mục tiêu của hội nghị quốc tế tại Annapolis vào năm ngoái - các giáo chủ Iran chưa chắc đã muốn nói chuyện. Họ sẽ còn quậy thêm cho nát để Hoa Kỳ sẽ tháo chạy như cánh tả phản chiến của đảng Dân Chủ đang mong muốn.

Khi Jimmy Carter thăm viếng và bênh vực lực lượng khủng bố Hamas của dân Palestine, ông ta chỉ chứng minh mình là... Carter. Muôn đời ngây thơ, ngớ ngẩn và tự yêu mình một cách thái quá mà quên mất kinh nghiệm nhục nhã của ông ta với Iraq. Khi Barack Obama bảy tỏ cảm tình với  lực lượng Hamas và còn tuyên bố rằng ông sẵn sàng nói chuyện với các chế độ hung đồ, kể cả Iran, ông ta chỉ chứng minh sự non dại của mình. Nói chuyện gì, để đạt kết quả gì và có cái thế gì làm đối phương phải chấp nhận một giải pháp dung hoà" Không dám dụng binh mà chỉ đòi dụng lễ thì sẽ tiến tới chỗ lễ lạy!

Nếu đừng tự mê tiếng nói và dung nhan, mà cố vùng ra khỏi sự kiềm tỏa của các nhóm phản chiến trong đảng Dân Chủ, Obama phải nhìn thấy rằng Đại tướng Petraeus không là một nhân vật võ biền chỉ biết tới quy luật của hỏa lực. Ông ta đang đàm phán với kẻ thù! Tướng Petraeus hiểu rõ mục tiêu chính trị của phương tiện quân sự . Ông thực tế đàm phán với các lãnh tụ Sunni để đạt kết quả người ta đang thấy. Đó là chuyện ngày nay, sang chuyện ngày mai, ta nên nhìn qua một mặt trận tuyến. Khi được thăng chức lên vị trí Tư lệnh Quân khi Trung ương CENTCOM để chỉ huy cả hai chiến trường Iraq và Afghanistan từ cuối năm nay, Petraeus có thể sẽ lại nói chuyện phải quấy với 1) Chính quyền Pakistan và các tướng lãnh thân Taliban trong tổ chức tình báo ISI của xứ này, 2) các tộc trưởng Hồi giáo đang thực sự kiểm soát khu vực tự trị tại biên giới giữa Pakistan và Afghanistan và 3) cả các lãnh tụ Taliban đang dung chứa khủng bố al-Qaeda. Hãy tưởng tượng đến một trường hợp lịch sử giả tưởng: sau chuyến Hoa du năm 1972, và vụ oanh tạc Hà Nội, nếu Chính quyền Richard Nixon lặng lẽ tiến hành đàm phán với Mặt trận Giải phóng miền Nam và Chính quyền Saigon để tiến tới một giải pháp trái độn làm áp lực với Hà Nội" Lúc đó, Hà Nội sẽ theo đuổi chiến tranh được bao lâu" Giả thuyết ấy không thể xảy ra vì nhiều lý do, nhưng chủ yếu là vì dư luận phản chiến và đảng Dân chủ nằng nặc kéo áo Hành pháp để bỏ chạy. Y hệt như ngày nay.

Cục diện Afghanistan còn phức tạp hơn Iraq ngày nay và Việt Nam ngày xưa gấp chục lần vì tại đây, Hoa Kỳ và các thành viên của Minh ước NATO không có sức mạnh quân sự đáng kể: chỉ có 47 ngàn quân, bằng một phần ba tại Iraq cho một giải pháp chính trị còn gay go hơn. Chúng ta sẽ còn cơ hội trở lại vấn đề này vì trực tiếp liên quan đến những bất an của Pakistan và khả năng cưỡng hành rất yếu của NATO.

Đây mới là nơi mà Tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ, dù là bất cứ ai, sẽ phải nhức đầu giải quyết. Với tài năng và quan điểm của Barack Obama, người đã từng chủ trương đưa quân vào Pakistan để truy lùng al-Qaeda, chúng ta nên e ngại giả thuyết bi thảm nhất trong cách giải quyết.

Bi hài!

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong bối cảnh thế giới đang trải qua những biến động nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và công nghệ, toàn cầu hoá – vốn từng được xem là động lực chính thúc đẩy cho tăng trưởng và thịnh vượng – đang đứng trước những thách thức chưa từng có. Tiến trình công nghiệp hoá và toàn cầu hoá đã đem lại nhiều thành tựu vượt bậc trong suốt thời gian dài qua, từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI, đặc biệt là thông qua sự chuyên môn hoá, tự do thương mại và tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên, các cuộc khủng hoảng tài chính, đại dịch toàn cầu, chiến tranh và cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc đã khiến mô hình toàn cầu hoá truyền thống bộc lộ nhiều tình trạng bất ổn...
Nhiều thế hệ sống ở Sài Gòn những năm của thập niên 80-90, khi con gà trống của Thương Xá Tax chưa bị bức tử, khi những hàng cây cổ thụ trên đường Tôn Đức Thắng vẫn là nét thơ mộng của Sài Gòn, có lẽ đều quen thuộc với câu “Chương Trình Truyền Hình Đến Đây Là Hết…” Nó thường xuất hiện vào cuối các chương trình tivi tối, khi chưa phát sóng 24/24. Thời đó, mỗi ngày truyền hình chỉ phát sóng trong một số khung giờ nhất định (thường từ chiều đến khuya) nên hầu như ai cũng có tâm lý chờ đợi đến giờ ngồi trước màn ảnh nhỏ, theo dõi vài giờ giải trí. Đó cũng là chút thời gian quên đi một ngày cơ cực, bán mồ hôi cho một bữa cơm độn bo bo thời bao cấp. Nhắc nhớ chút chuyện xưa, để nói chuyện nay, đang diễn ra ở một đất nước văn minh hàng đầu, từng là niềm mơ ước của biết bao quốc gia về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận.
Trên mạng gần đây lan truyền một bức tranh chuỗi tiến hóa ngược nhại kiểu Banksy - vẽ hình ảnh tiến hóa quen thuộc từ khỉ tiến tới người, nhưng đến giữa chặng đường, một gương mặt ai cũng nhận ra quay lưng đi ngược lại về phía khỉ. Cái dáng ngoảnh đầu ấy khiến tôi chạnh lòng nghĩ đến hình ảnh nước Mỹ hôm nay. Giữa thế kỷ XXI, lẽ ra phải tiếp tục đi tới, nhưng thay vì mở rộng tự do học thuật – ngọn nguồn của sáng tạo – chúng ta lại thấy những dấu hiệu nước Mỹ thoái lui theo một quỹ đạo lạ lùng: thử nghiệm một kiểu “tiến hóa ngược”.
Từ khi Tối Cao Pháp Viện lật đổ Roe v. Wade, chúng ta đều biết câu chuyện không dừng lại ở đó. “Để tiểu bang tự quyết” chỉ là cái cớ. Và Texas, tiểu bang bảo thủ dẫn đầu, vừa chứng minh điều đó bằng một luật mới: trao cho bất kỳ ai quyền săn lùng và kiện những người dính dáng tới thuốc phá thai. Texas vốn đã có một trong những lệnh cấm khắc nghiệt nhất: phá thai bị cấm hoàn toàn, trừ vài ca y tế khẩn cấp. Không ngoại lệ cho thai dị tật chết non. Không ngoại lệ cho hiếp dâm. Không ngoại lệ cho loạn luân. Thế nên, nhiều phụ nữ Texas chỉ còn con đường tìm đến thuốc phá thai qua mạng, thường từ những nhà cung cấp ở ngoài tiểu bang. Luật mới nhắm thẳng vào cánh cửa mong manh ấy.
Suốt 250 năm, người Mỹ đồng ý rằng cai trị bởi một người duy nhất là sai lầm, rằng chính quyền liên bang vốn cồng kềnh, kém hiệu quả. Lẽ ra hai điều ấy đủ để ngăn một cá nhân cai trị bằng mệnh lệnh từ Bạch Ốc. Nhưng Trump đang làm đúng điều đó: đưa quân vào thành phố, áp thuế quan, can thiệp vào ngân hàng trung ương, chen vào quyền sở hữu công ty, gieo nỗi sợ để buộc dân chúng cúi đầu. Quyền lực bao trùm, nhưng không được lòng dân. Tỉ lệ chấp thuận của ông âm 14 điểm, chỉ nhỉnh hơn chút so với Joe Biden sau cuộc tranh luận thảm hại năm ngoái. Khi ấy chẳng ai lo ông Biden “quá mạnh”. Vậy tại sao Trump, dù bị đa số phản đối, vẫn dễ dàng thắng thế?
Có bao giờ bạn nói một điều rõ ràng như ban ngày, rồi nghe người khác nhắc lại với nghĩa hoàn toàn khác? Bạn viết xuống một hàng chữ, tin rằng ý mình còn nguyên, thế mà khi quay lại, nó biến thành điều bạn chưa từng nghĩ đến – kiểu như soi gương mà thấy bóng mình méo mó, không phải bị hiểu lầm, mà bị người ta cố ý dựng chuyện. Chữ nghĩa, rơi vào tay kẻ cố ý xuyên tạc, chẳng khác gì tấm gương vỡ. Mỗi mảnh gương phản chiếu một phần, nhưng người ta vẫn đem mảnh vỡ đó làm bằng chứng cho toàn bộ bức tranh. Một câu, một đoạn, một khẩu hiệu – xé khỏi bối cảnh trở nên lệch lạc – hóa thành thứ vũ khí đâm ngược lại chính ý nghĩa ban đầu. Câu chuyện của đạo diễn Trấn Thành gần đây là một minh họa. Anh chỉ viết đôi dòng thương tiếc chia buồn với sự ra đi của nghệ sĩ đàn bầu Phạm Đức Thành. Vậy thôi. Thế mà lập tức bị chụp mũ, bêu riếu, bị gọi “3 que,” “khát nước,” “Cali con.” Người ta diễn giải đủ kiểu, vẽ ra đủ cáo buộc: từ tội mê văn hóa Việt Nam Cộng Hòa đến tội phản quốc.
Sau thất bại trước đối thủ đảng Dân Chủ Joe Biden trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020, nội các “gia đình trị” của Donald Trump gần như biến mất khỏi chính trường. Các đồng minh không thể có cùng tiếng nói với Trump, nhất là sau vụ bạo loạn Quốc Hội Jan 06. Duy nhất một người vẫn một lòng trung thành không bỏ rơi Trump, đó chính là Stephen Miller. Nhiệm kỳ hai của Trump, người được cho là có quyền lực hơn trong vòng tròn thân cận của Trump, hơn cả JD Vance, chẳng ai khác hơn chính là Stephen Miller. Để tạo ra những ảnh hưởng chính trong chính quyền Trump hôm nay, Miller đã có một đường dài chuẩn bị, khôn ngoan và nhẫn nại.
Đầu tháng 8 năm 2025, Tổng thống Donald Trump đã ký một mệnh lệnh đặc biệt, chỉ đạo các cơ quan hữu trách lập kế hoạch đưa quân đội Hoa Kỳ đi trấn áp các tổ chức tội phạm ở Mỹ Latinh. Khoảng hai tuần sau, mệnh lệnh đã thành hiện thực. Ba khu trục hạm có gắn phi đạn viễn khiển (guided-missile destroyers) của Hoa Kỳ đã được khai triển tới vùng biển Venezuela, đảm trách việc chặn giữ các chuyến hàng ma túy.
Một góc khuôn viên của Đồi Capitol sáng Thứ Tư là những câu chuyện tưởng đã bị chôn vùi, nay được kể ra trong sự run rẩy, xúc động và cả nước mắt. Trước hàng chục ống kính truyền thông chiếu trực tiếp trên toàn quốc, khoảng mười người phụ nữ lần lượt kể ra câu chuyện của chính mình – nạn nhân của Jeffrey Epstein, tỷ phú tội phạm tình dục và buôn bán mại dâm trẻ vị thành niên. Ngày đó, những phụ nữ này chỉ vừa 16, 18 tuổi, nhỏ nhất là Marina Lacerda, 14 tuổi.
Ở đời, chẳng có ngai vàng nào là miễn phí. Muốn hỏi cưới công chúa thì phải có sính lễ. Làm gì có chuyện đi tay không mà cuỗm được gái đẹp — trừ trường hợp dùng quyền lực bẩn thỉu cưỡng hiếp gái tơ (nghe quen quen). Muốn làm đàng anh đàng chị không thể vừa keo kiệt vừa đòi được người ta kính nể. Quy luật xưa nay không đổi ăn khế thì phải trả vàng. Ngai vàng toàn cầu cũng vậy -- không chỉ làm bằng vàng, mà còn bằng chi phí, lời hứa, và trên hết, là sự tín nhiệm.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.