Hôm nay,  

Sức Mạnh Của Lòng Từ Bi

02/12/200800:00:00(Xem: 11224)

SỨC MẠNH CỦA LÒNG TỪ BI

Hạnh Chi
Đại-đế Nã-Phá-Luân của nước Pháp, người từng làm rung chuyển đất trời, sụp đổ lâu đài, thành quách mỗi khi đoàn chiến mã của ông băng qua, nhưng ở lúc cuối đời, đã để lại câu nói:
 “Có hai sức mạnh trên thế giới. Đó là sức mạnh của thanh gươm và sức mạnh của tấm lòng. Nhưng chung cuộc, bao giờ tấm lòng cũng đánh bại thanh gươm.”
Hai hình ảnh tương phản đó, là sự hủy diệt và hàn gắn, sự tàn ác và lòng từ-bi.
Sức mạnh của tấm lòng chính là lòng từ-bi. Với sức mạnh này, thanh gươm sẽ bị tấm lòng bẻ gẫy!
Nhân gian đời-thường, sau bao kinh nghiệm chìm nổi, thịnh suy, cuối cùng cũng phải nhận rằng, những gì tưởng là tột đỉnh của lẽ sống, thực ra chỉ là vô thường mà những vết thương trầm thống đó, chỉ có lòng từ bi mới chuyển hóa và trị liệu được.
Lòng từ bi theo lời Phật dạy, chẳng phải chỉ đối với người sống mà còn với kẻ chết. Những oan hồn uổng tử vất vưởng ba nẻo sáu đường biết trông cậy vào đâu để mong giải thoát và tìm đường tái sinh kiếp khác! Nhờ lòng hiếu thảo của Đại hiếu Mục Kiền Liên muốn báo hiếu cứu mẹ thoát khỏi địa ngục mà Đức Phật đã dạy Kinh Vu Lan bồn, cách tứ sự cúng dường cùng việc thí thực cô hồn trong rằm tháng bẩy. Bao hồn oan lang thang đói khát đã nương sức từ bi, trông chờ ngày tháng đó mà có bát cháo no lòng; và quan trọng hơn cả là nhờ công đức hồi hướng chí thành của người cúng thí mà có cơ may gặp duyên lành được giải thoát.
Đây là hình thức chung cho đại chúng, mỗi năm mới cúng một lần. Nhưng vì biết được sự khát khao trông đợi của biết bao oan hồn uổng tử, tuy khuất mày khuất mặt nhưng đau đớn luôn phảng phất, mênh mang trời đất nên có nhiều tự viện vẫn thành tâm thí thực mỗi ngày, hoặc mỗi tuần.
Tôi thấy được điều này ở chùa Phật Tổ.
Hàng tuần, chúng tôi có hai ngày tu niệm Phật thường xuyên là thứ bẩy và chủ nhật. Những Phật tử ở xa, đến từ chiều thứ sáu, nghỉ đêm tại chùa cho đến hoàn mãn lúc 5 giờ chiều chủ nhật. Sau khi hoàn mãn, quý thầy cô trong chùa thường sắp một bàn dài, trước cửa chánh điện, bầy trái cây, bánh kẹo, chè, cháo, để cúng cô hồn. Những Phật tử dự khóa tu đều hoan hỷ ở lại góp lời trì tụng. Mỗi chiều chủ nhật, cư dân địa phương quanh chùa lại nghe tiếng trống của thầy Thường Giới, quyện cùng tiếng khánh, tiếng mõ của các sư-cô, thiết tha mời gọi bao oan hồn gần xa hãy mau về thọ tài hưởng thực, thính pháp văn kinh:
“Thần chú gia trì cam lồ thủy
Phổ thí hà sa chúng cô hồn
Nguyện giai bảo mãn xả xan tham
Tốc thoát U Minh sanh Tịnh Độ
Quy y Tam Bảo phát Bồ Đề
Cứu cánh đắc thành Vô Thượng Đạo
Công đức vô biên tận vị lai
Nhứt thiết cô hồn đồng pháp thực”
Mỗi lần tới đoạn này, chúng tôi đều vừa cất tiếng tụng, vừa nhìn nhau vì cùng nhận được như có sự giao cảm nhiệm mầu:
“Oai linh thần chú phi thường, nước mát biến thành nước cam lộ, cúng thí vô số chúng cô hồn, cầu cho no ấm hết xan tham, thoát khỏi U minh về Cõi Tịnh, quy y Tam Bảo rõ Đạo Mầu, rốt ráo trọn nên bậc Vô Thượng, công đức không lường ở vị lai, tất cả cô hồn đồng Pháp-thực”

Những ai từng dự lễ cúng cô hồn, dù phẩm vật dâng cúng đơn sơ tới đâu nhưng với lời trì tụng chí thành giữa làn khói hương nghi ngút đều cảm thấy ít nhiều bâng khuâng của sự giao cảm âm dương cách biệt.

Tình cờ, tôi vừa đọc được một bài viết rõ nét về sự chiêu cảm nhiệm mầu này, cho chúng ta niềm tin mạnh mẽ hơn về một thế giới vô hình, tuy khoa học không chứng minh được nhưng cũng không thể phủ nhận được.
Bài viết về dịp mới đây, tăng thân Làng Mai sang thăm viếng Viện Phật Học Ứng Dụng Âu Châu (VPHUDAU), danh xưng tiếng Anh là European Institude of Applied Buddism (EIAB), tại thành phố Waldbroel, Đức Quốc.
Tòa nhà này đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử thịnh suy của nước Đức. Theo bài viết, năm 1895, tòa nhà hoành tráng, mênh mông này từng là bệnh viện chính của thành phố, với nhiều phân khoa, trong đó có sản khoa mà nhiều nhân vật tiếng tăm đã từng chào đời tại đây. Nhưng sau đó, bệnh viện này lại trở thành bệnh viện tâm thần và trung tâm nuôi giữ trẻ khuyết tật. Đến năm 1938, chính phủ Đức đương thời muốn trưng dụng làm Hàn Lâm Viện Quân Sự cho quân đội Đức nên đã ra lệnh di chuyển toàn bộ hơn 700 trẻ khuyết tật và những người tâm thần đi đâu, biệt tích!
Sau đó, tòa nhà được sửa sang nguy nga tráng lệ cho một Hàn Lâm Viện bề thế, nhưng quân đội chưa được xử dụng ngày nào thì Hitler thua trận! Ngôi nhà đương nhiên thuộc về Bộ Quốc Phòng, nhưng chỉ thỉnh thoảng dùng làm nơi tổ chức những khóa huấn luyện ngắn hạn cho các sỹ quan. Khi bức tường ngăn cách Đông và Tây Bá Linh sụp đổ thì một lần nữa, số mệnh tòa nhà nổi trôi theo lịch sử, bị bỏ trống lâu năm, rồi cuối cùng, được giao cho Phòng Bất Động Sản của quân đội để bán cho tư nhân.

Với sự nhiệm mầu gần như KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN, ngôi nhà đã được gợi ý thành Viện Phật Học Âu Châu dưới sự lãnh đạo tinh thần của Sư Ông Làng Mai, tức Thiền sư Trừng Quang Nhất Hạnh, thuộc thế hệ thứ 42 của Tông Lâm Tế và thế hệ thứ 8 của phái Liễu Quán.


Những tiến trình sau sự gợi ý này đã tiến nhanh ngoài dự tưởng của những người trong cuộc trên cả hai phương diện, tinh thần và vật chất. Những thương lượng khởi đầu: “Thôi, chúng tôi làm gì có tiền như thế mà mua nổi!”, tòa nhà đã GẦN NHƯ TẶNG KHÔNG, để với thời gian kỷ lục, nay đã thoát xác, thành Viện Phật Học Ứng Dụng Âu Châu.

Mới đây, sáng ngày 14 tháng 11 năm 2008, khi thiền hành trong công viên, Sư Ông chợt thấy trên vườn hoa dẫn vào cổng trước, một phiến đá rất đẹp, trên đó có gắn một miếng đá nhỏ hơn, hình chữ nhật, ghi chi chít tiếng Đức. Sư Ông đã bảo sư-chú Pháp Chu người Đức, dịch cho Sư Ông nghe. Phiến đá ghi:
“Để tưởng niệm những người trong bệnh viện cũ này tại Waldbroel, mà trong thời gian (Đức) Quốc Xã, bị xem như là không đáng sống và bị lấy mất nhân cách và mạng sống của họ qua cách ép buộc kết liễu đời mình và bị ép lấy mất khả năng sinh con.”   
Bên dưới có một tấm bia khác, ghi thêm chi tiết về con số 700 bệnh nhân tâm thần và khuyết tật đã bị chở đi biệt tích, ngày 14 tháng 11 năm 1938.
Với hai tấm bia ghi lại thảm kịch này, người sau hiểu rằng hơn 700 nạn nhân thời đó đã bị bức tử! 
Sư Ông Làng Mai và tăng đoàn đều giật mình sửng sốt vì từ khi tiến hành thủ tục nhận tòa nhà này, dù đã đến đây mấy lần nhưng chưa hề nhìn thấy phiến đá, cũng chưa nghe ai nói về sự kiện này. Vậy mà, điều gì đã chờ đợi đến đúng ngày 14 tháng 11 năm 2008, để bước chân thiền hành của vị thiền-sư dừng lại trước phiến đá, ghi nhận được dấu mốc đúng 70 năm sau thảm kịch!
Nhận ra sự trùng hợp kỳ diệu này, chính vị thiền-sư từng thản nhiên trước mọi sự, cũng phải rùng mình!

Thầy Pháp Ấn, vị đệ tử lớn của Sư Ông và cũng là người sẽ chịu trách nhiệm điều hành Phật Học Viện Âu Châu trong giai đoạn đầu đã từng kể rằng, tuần lễ mới về, thầy thường nằm mộng thấy nhiều trẻ em khuyết tật khóc than, cầu cứu. Sáng ra, thầy có kể cho mọi người nghe thì các sư cô đã lập đàn, cúng cháo, bánh kẹo; thì một vài đêm sau đó, có sư cô đã nằm mộng thấy nhiều em bé chạy nhảy, vui đùa, cùng nhau ăn bánh kẹo thỏa thích. Các Thầy Cô nghĩ rằng, có lẽ chỉ vì thành tâm mà có biểu hiện trong những giấc mơ thế thôi.
Nhưng, sau sự khám phá bất ngờ về tấm bia đá ghi chứng tích thảm kịch này thì những dữ kiện đã kết hợp lại với nhau, không gì là tình cờ nữa! Những oan hồn từ thế giới vô hình đang cố gắng truyền đạt nỗi thống khổ của họ tới những ai mà họ tin là có thể bám víu, có thể tin tưởng sẽ cứu vớt họ được.
Thảm kịch xảy ra đã bẩy mươi năm. Suốt thời gian đằng đẵng đó, nỗi oan khổ của hơn bẩy trăm oan hồn, hẳn vẫn kêu khóc tức tưởi ngày đêm,  nhưng vô vàn bi phẫn đó vẫn còn nguyên vẹn! Bẩy mươi năm, bao nhiêu ngàn vạn bước chân đã đi ngang, nhưng có lẽ không một tấm lòng nào đủ từ bi khiến bước chân dừng lại! Hoặc có dừng lại, nhưng không đủ năng lượng mẫn ái để cứu giúp!           
Vậy thì, đây hẳn là thông điệp kỳ diệu của Chư Phật, Chư Bồ Tát, Chư Thiên, Chư Tiên đã sắp đặt để tòa nhà giam hãm bao oan khiên thống khổ này, nay được trở thành Linh Địa, nơi sẽ hướng dẫn và dìu dắt chúng sanh chuyển hóa và trị liệu thương tích cho nhau, để cùng lên đường giải thoát, giác ngộ.
Sự khám phá trùng hợp, bất ngờ này không những làm sững sờ dân chúng nước Đức mà còn khiến nhiều kẻ vô thần phải hoảng sợ, nghĩ lại về nghiệp báo oan gia, khi vay trả chưa xong thì nợ nần vẫn còn đó.

Lời khấn nguyện với các hương linh tại Waldbroel mà Sư Ông Làng Mai đã soạn để các sư cô cúng tụng mỗi chiều, thể hiện lòng Đại Từ Đại Bi mà Đức Thế Tôn đã truyền dạy ngài Mục Kiền Liên khi xưa:
“Xin hương linh quý vị và các cháu lắng nghe và chứng giám,
Bẩy mươi năm về trước, người ta đã đối xử rất tệ hại với liệt vị. Nỗi khổ niềm đau rất lớn ấy, ít ai thấy được.
Ngày nay, Tăng thân đã tới, đã nghe và đã hiểu tất cả những khổ đau, tủi nhục và uất ức ấy. Tăng thân đã đi thiền hành, đã ngồi thiền, đã thở trong chánh niệm, đã trì chú, tụng kinh, thí thực, để cầu, trên Chư Bụt, chư vị Bồ Tát, chư vị Tổ Sư, xin quý Ngài hồi hướng công đức vĩ đại của quý Ngài cho liệt vị và các cháu, để quí vị và các cháu có cơ hội chuyển hóa, tái sanh ra dưới hính thức mới. Những người đã làm khổ quí vị, họ cũng đã gánh chịu nhiều hậu quả khổ đau. Xin quí vị mở lòng từ bi, tha thứ cho họ, để họ cũng có cơ hội giải thoát và chuyển hóa.
Xin quí vị hộ trì cho Tăng thân và cho các thế hệ hành giả kế tiếp để họ có thể biến nơi này thành một cơ sở thực tập chuyển hóa và trị liệu, không những cho thành phố Waldbroel mà cho cả nước Đức và cả toàn thế giới.”

Lương tâm nhân loại ơi!
Với những huyền bí và mầu nhiệm của sự việc vừa bất ngờ chứng nghiệm và giao cảm, trước sự chứng kiến khách quan và đông đảo của mọi thành phần, chúng ta thử tưởng tượng xem, nếu tòa nhà này, qua sự mua bán bình thường, lại trở thành những địa điểm cung ứng thú vui dục lạc đời-thường, thì bao oan hồn uổng tử kia biết bám víu vào đâu mà mong ngày giải thoát!

ÁN TAM ĐÀ RA DÀ ĐÀ TA BÀ HA
Hạnh Chi
(Độc-Cư-Am, chớm Đông 2008)   

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.