Hôm nay,  

Chuyển Dịch Thịnh Vượng

24/06/201000:00:00(Xem: 6534)

Chuyển Dịch Thịnh Vượng

Mai Vân RFI & Nguyễn Xuân Nghĩa

Các quốc gia đang phát triển có thể vượt các nước giàu trong 20 năm tới...
Ngày 16/06/2010, Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh Tế (OCDE/OECD) đã công bố một bản báo cáo về triển vọng kinh tế thế giới mang tựa đề ‘’Viễn ảnh Phát triển Toàn cầu : sự chuyển dịch của nền thịnh vượng’’. Theo ghi nhận của OCDE, thế giới đang chứng kiến một sự thay đổi lớn trong trật tự kinh tế toàn cầu, với phần đóng góp ngày càng lớn của các nước đang phát triển, mà các nhà kinh tế xem là đầu tàu hiện đang kéo kinh tế thế giới đi lên.
Theo dự báo của Quỹ Tiền Tệ Quốc tế FMI, đưa ra vào tháng 4/2010, tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2010, sẽ đạt tỷ lệ bình quân 4,2%. Tính riêng từng khu vực, thì tại vùng Châu Âu sử dụng đồng euro, tăng trưởng chỉ là 1%. Hoa Kỳ khá hơn một chút với 3,1%. Trong lúc đó thì Châu Á đạt 8,7%, với đầu tàu là Trung Quốc, có tỷ lệ 10%. Ấn Độ không kém với 8,8%. Brazil, một quốc gia đang vươn lên khác cũng đạt 5,5%. Theo Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, tăng trưởng tại các nước đang vươn lên này sẽ là động cơ, giúp các quốc gia giàu có vực dây nền kinh tế của mình.
Quả là có một sự đổi vai. Nhưng tổ chức OCDE, tỏ ra rất lạc quan về triển vọng sắp tới của các quốc gia đang phát triển và đang vươn lên, thường được gọi chung là "phương Nam". Khối này không chỉ bắt kịp các quốc gia đã phát triển, mà vào năm 2030, tức là trong 20 năm tới đây, còn sẽ vượt qua các nước phương Bắc, và chiếm một tỷ trọng đến gần 60% sản lượng toàn cầu, trong lúc mà toàn bộ số hơn 30 quốc gia thành viên giàu có của tổ chức OCDE, vào thời điểm đó chỉ còn chiếm được hơn 40%.
Tỷ lệ kể trên đã đảo ngược hoàn toàn so với cách đây 10 năm, khi các quốc gia giàu có còn chiếm 60%, tổng sản lượng toàn cầu. Đà suy giảm của khối nước phương Bắc tuy nhiên đã khởi sự, và đến năm 2010, tỷ trọng các quốc gia công nghiệp phát triển đã tuột xuống còn 51%. Trong trật tự thế giới mới do OCDE phác họa, trao đổi giữa các quốc gia phương Nam với nhau sẽ gia tăng, và trở thành một trong những động lực chính thúc đẩy tăng trưởng toàn cầu trong thập niên tới đây.
Về mức sống người dân, theo bản báo cáo, hiện nay một số quốc gia đang phát triển cũng đã bắt kịp mức sống các quốc gia giàu. Tuy nhiên OCDE cũng gợi lên một số điểm đen trong viễn ảnh lạc quan của mình: đó là sự chênh lệch phát triển giữa các quốc gia phương Nam với nhau và nhất là khoảng cách giàu nghèo càng lúc càng sâu thêm trong từng nước. Trong tình hình đó, OCDE khuyến cáo các nước phương Nam là nên nhanh chóng thực hiện các chính sách xã hội để giảm bớt các khó khăn nẩy sinh.
Vấn đề đặt ra là viễn ảnh mà tổ chức OCDE phác họa có thật sự sẽ hoàn toàn tốt đẹp như thế hay không. Trả lời phỏng vấn RFI sau đây, kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa tại California, tỏ ra thận trọng, và nêu một số yếu tố mà các quốc gia Phương Nam còn thiếu và có thể ngăn cản bước tiến của các nước này, trong đó có cả những vấn đề phi kinh tế như trí tuệ và dân chủ.
RFI: Tổ chức Hợp tác và Phát triển OCDE đã công bố phúc trình về "Viễn ảnh Phát triển Toàn cầu" với nội dung tập trung vào những thay đổi lớn về sự giàu có trên thế giới trong vòng hai chục năm tới. Thưa anh, xưa nay, người ta nói đến một ranh giới Nam-Bắc của phát triển, theo đó, các nước ở Bắc bán cầu đã công nghiệp hoá trước tiên, và trở thành giàu có nhất so sánh với các nước ở Nam bán cầu. Bây giờ, theo dự báo của OCDE thì người ta đang thấy ra một trật tự mới của kinh tế thế giới, với các nước miền Nam sẽ đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn. Cụ thể thì nay đang ở trong tình trạng ngang ngửa, chứ 20 năm tới sẽ vượt qua các nước công nghiệp hoá ở miền Bắc và sẽ giao dịch mua bán với nhau nhiều hơn nên sẽ làm chủ một lượng tài sản lớn hơn của địa cầu. Và nhất là thị trường tiêu thụ to lớn của họ có khả năng đảy lượng giao dịch với các nước phát triển mạnh hơn và giúp các nước này ra khỏi khủng hoảng kinh tế. Anh nghĩ sao về những kết luận trên "
Nguyễn Xuân Nghĩa: Người ta căn cứ trên những thành quả kinh tế trong 20 năm vừa qua, tức là từ đầu thập niên 90 đến cuối năm 2008, để đưa ra một cái dự phóng cho tương lai. Căn cứ trên kết quả trong 20 năm qua thì ta thấy các nước gọi là đang phát triển có tốc độ phát triển cao hơn, có sản lượng công nghiệp cao hơn, và họ buôn bán giao dịch với nhau nhiều hơn. Thành ra mức sống của dân cư tại những nơi đó cũng cải thiện, cụ thể là có cỡ chừng 500 triệu người thuộc loại bần cùng, tức là bình quân lợi tức chỉ có 1 đô la một ngày chẳng hạn, thì đã ra khỏi cái sự nghèo khổ đó. Đa số thành phần đó nằm ở Trung Quốc.
Và vì lợi tức gia tăng ở các nước đó mà người ta tin rằng và người ta cũng mong rằng là khả năng tiêu thụ cao hơn của các nước đang phát triển có thể giúp cho các nước giàu có đang bị đình trệ kinh tế sẽ có một thị trường xuất cảng nhiều hơn. Và như vậy, vì thị trường tiêu thụ nội địa của các nước đang phát triển có thể còn gia tăng theo mức lợi tức dân cư của họ mà họ nghĩ rằng có thể thế giới đang có một sự xoay chuyển lớn.
Trước đây, các nước công nghiệp thường nhập cảng nhiều, tiết kiệm ít và đà tăng trưởng thấp, và trong khi đó thì các nước nghèo, họ cố ra công xuất cảng nhiều, và có tốc độ tăng trưởng cao hơn. Bây giờ thì nó có thể sẽ đưa đến một tình trạng gọi là tái quân bình lại luồng giao dịch giữa các nước với nhau và các nước nghèo có thể sẽ mua hàng của các nước giàu nhiều hơn và nhờ đó mà có thể kéo các nước Âu Mỹ, kể cả Nhật Bản, ra khỏi tình trạng đình trệ vừa rồi.
Tôi nghĩ đấy là cái mặt gọi là tích cực mà bản thân tôi cho là quá lạc quan của những cái nhận định đó.
RFI: Tại sao anh lại cho là nhận định đó quá lạc quan "
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi sẽ làm thính giả giật mình, thậm chí khó chịu, nếu nói rằng chúng ta đang chứng kiến một hài kịch có nhiều cảnh nhiều màn của kinh tế thế giới.


- Thứ nhất, Tổ chức Hợp tác và Phát triển OCDE chủ yếu chỉ là một trung tâm nghiên cứu, được hình thành từ sau Thế chiến II bởi các nước kỹ nghệ hoá thuộc Bắc bán cầu, đa số tại Âu châu. Trong số 34 hội viên hiện hành có hơn hai tá là các nước Âu châu và trong các nước Âu châu ấy, chừng mươi quốc gia đang gặp nhiều vấn đề kinh tế, thậm chí bị nguy cơ khủng hoảng. Tôi không tin là OCDE đã tiên báo được mức độ trầm trọng của vụ khủng hoảng ở ngay tại sân nhà là Âu châu nếu ta đọc lại báo cáo của tổ chức này về nạn tổng suy trầm vừa qua.
- Cũng vì vậy, và đây là yếu tố thứ hai, họ dễ chột dạ về sự suy sụp của mình và dự báo chu kỳ thịnh vượng của các nước mới phát triển, trong đó có các nước tôi xin gọi là "tân hưng", tức là mới nổi, và các nước vừa chập chững bước vào giai đoạn phát triển. Hiện tượng này cũng giống như sự lạc quan của các định chế quốc tế khi nói về phép lạ kinh tế Đông Á ngay trước khi Đông Á bị khủng hoảng thời 1997-1998. Họ nhìn vào kính chiếu hậu, là dựa vào những dữ kiện kinh tế của quá khứ, như tốc độ tăng trưởng hoặc lượng hàng giao dịch của ngoại thương, để từ đó vạch ra đường tuyến cho tương lai trước mắt. Rồi kết luận rằng thế giới đang bước qua một trật tự mới với sức nặng của các nước đang phát triển.
- Thực tế thì các nước đi sau đều học được kinh nghiệm của các nước đi trước cho nên có thể đốt giai đoạn và khi bắt đầu bước vào chu kỳ phát triển thì đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn. Sau đó, thì họ cũng lại chậm nhịp phát triển khi bước vào giai đoạn trưởng thành như các nước kia. Tuy nhiên, khác với các nước kỹ nghệ hoá đã trước tiên dân chủ hóa và có ý thức xã hội cao độ, các nước đi sau lại không được như vậy! May là phúc trình của OCDE có cảnh báo điều ấy khi nhấ mạnh tới sự bất công tiềm ẩn trong đà tăng trưởng....
RFI: Đúng là anh hay có thói quen xối nước lạnh! Báo cáo của tổ chức OCDE có nói đến thành tích xoá đói giảm nghèo trong các nước đang phát triển và còn nêu ra một con số thực tế là các quốc gia này đang nắm giữ một lượng dự trữ ngoai tệ lớn hơn các nước gọi là giàu có. Trong khi ấy, ta thấy là các nước giàu có này giờ đây đang mắc nợ, từ Nhật Bản, Hoa Kỳ về tới nhiều nước Âu Châu. Anh không cho rằng đó là thành tích đáng kể và tiềm lực đáng tin sao "
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Báo cáo của OCDE tập trung vào thời khoảng hai chục năm qua, từ 1990 là khi Chiến tranh lạnh kết thúc đến 2008 là khi thế giới bị trận tổng suy trầm toàn cầu. Từ đó, họ vạch đường tuyến tương tự cho tương lai hai chục năm tới và vẽ ra triển vọng màu hồng cho các nước đang phát triển. Tôi thiển nghĩ là sự thật lại không lạc quan như vậy vì nhiều lý do.
- Thứ nhất, chính là nguyên lý kinh tế tự do và chính trị dân chủ của các xứ kỹ nghệ hoá, chủ yếu là Âu-Mỹ, đã lấy trớn phát triển cho các nước nghèo trong 60 năm vừa qua. Nhờ vậy mà dân số các nước nghèo đã tăng mạnh và tương đối có kiến năng cao hơn thế hệ trước. Trong khi ấy, các nước công nghiệp hoá - ngoại lệ là Hoa Kỳ nhờ chính sách di dân cởi mở - lại thấy dân số co cụm dần, bị lão hoá, và ảnh hưởng tới năng suất. Nhờ đầu tư nhiều hơn và có dân số đông hơn - khoảng một tỷ rưỡi người đi vào thị trường lao động - các nước nghèo có thể đạt tốc độ tăng trưởng cao trong mấy chục năm liền. Nhưng khi họ bớt nghèo đi thì đà gia tăng dân số ấy cũng sẽ giảm, là chuyện ta bắt đầu thấy tại Trung Quốc. Và đà tăng trưởng cũng vậy.
- Thứ hai, nói về tài sản hay cụ thể là dự trữ ngoại tệ, ta không quên loại tài sản vô hình mà lại là then chốt cho phát triển và năng suất. Là kiến năng, kiến thức và khả năng. Các xứ tân hưng hay đang phát triển có thể nắm giữ một khối dự trữ ngoại tệ trị giá hơn 4.000 tỷ Mỹ kim hay ngoại tệ mạnh khác của các nước giàu. Nhưng họ làm chủ bao nhiêu bằng sáng chế trên thế giới" So với Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức hay thậm chí Nam Hàn, thì dự trữ về trí tuệ của các nước này không đáng kể. Nếu không đầu tư vào giáo dục và đào tạo để nâng cấp về trình độ sản xuất thì các nước này chỉ sao chép sáng kiến của Bắc bán cầu và bán hàng cho nhau với giá trị gia tăng thật ra cũng không cao.
- Thế giới cứ bị mê hoặc bởi các doanh nghiệp Ấn Độ hay Trung Quốc đã đầu tư vào thị trường Âu-Mỹ, nào mua hãng xe hơi xứ này, mua công ty điện toán xứ kia, nhưng nếu tương lai các nước tân hưng này quả là sáng láng như vậy vì sao họ không đầu tư vào khu vực nội địa lạc hậu của họ để nâng mức sống và phẩm chất của đời sống cho cả tỷ dân của họ"
- Thứ ba và đây là yếu tố bi quan nhất, đó là những dị biệt quá lớn về lợi tức, nhận thức và quyền lợi của các nước tân hưng hay đang phát triển với nhau. Ngược với suy luận lạc quan của nhiều người, tôi trộm nghĩ rằng các nước càng buôn bán giao dịch với nhau thì tranh chấp về quyền lợi càng dễ xảy ra. Đó là kinh nghiệm của Âu châu vào đầu thế kỷ trước. Cũng do kinh nghiệm đắt đỏ ấy mà Âu châu trở thành dân chủ và hiếu hoà hơn ngay trong trường cạnh tranh kinh tế. Các nước đang phát triển chưa tiến tới giai đoạn ấy và mâu thuẫn của họ với nhau vẫn có thể xảy ra và càng dễ xảy ra trong lãnh vực kinh tế vì những chuyển dịch của sự giàu có. Bất ổn đó có thể làm gãy đường tuyến lạc quan của tổ chức OCDE! Xin nhắc lại là sau Thế chiến thứ nhất, năm 1920, không ai ở Âu châu có thể tin là Âu châu sẽ lại gặp đại chiến trong vòng 20 năm tới...
RFI: Câu hỏi cuối thưa anh: trong viễn ảnh mà anh thấy là không tất nhiên tốt đẹp như vậy, một xứ đang phát triển như Việt Nam cần tự chuẩn bị những gì để tránh khỏi kịch bản bi quan mà anh vừa nêu ra"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Một mỉa mai lớn mà vô cùng ý nghĩa là cùng lúc cơ quan OCDE đưa ra viễn ảnh màu hồng cho các nước đang phát triển thì Việt Nam lại chụp bức màn đen lên kiến thức quốc gia khi Hà Nội tăng cường kiểm soát mạng lưới điện toán. Mối lo của họ là tự do thông tin và dân chủ chính trị, trong khi chính hai yếu tố ấy mới bảo đảm hy vọng phát triển bền vững và ổn định trong lâu dài. Nếu chỉ nhìn vào con số tăng trưởng biểu kiến của mươi năm qua mà cho rằng cứ 10 năm thì lợi tức đồng niên của người dân lại tăng gấp đôi, người ta chưa thực sự làm chủ được tương lai. Và khi hữu sự thì chẳng nên đổ vạ cho một trung tâm nghiên cứu!

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.