Hôm nay,  

Gặp Gỡ Trên Xe Lửa

14/07/201000:00:00(Xem: 7894)

Gặp gỡ trên xe lửa

Bút ký của: Đoàn Thanh Liêm
Trong hai thứ xe chuyên chở hành khách, thì đi xe lửa có nhiều tiện nghi hơn là đi xe bus. Một phần vì xe lửa có chỗ ngồi rộng rãi và thỏai mái, đàng khác hành khách lại có thể đi lại từ toa này đến toa xe khác. Vả lại trên xe còn có chỗ bán đồ ăn thức uống và còn phục vụ cả bữa ăn cho hành khách nữa. Cũng như hành khách có thể ngồi chơi, nhâm nhi lon bia và chuyện trò thỏai mái trên toa “vọng cảnh” (sightseeing) nữa. Nói chung sinh họat của số đông hành khách trên xe lửa thì thật là sinh động, vui tươi bởi lý do là vào mùa hè, học sinh được nghỉ học, nên cha mẹ, ông bà thường dẫn các cháu đi du lịch bằng xe lửa, để vừa ngắm cảnh, vừa thực tập về môn địa lý nữa.
Nhưng riêng đối với tôi, thì tôi rất thích cái cơ hội gặp được những người khách ngồi bên cạnh mình, mà có thể chuyện trò trao đổi tâm sự một cách thân tình thỏai mái, tựa như giữa hai người bạn tâm giao mà đã gắn bó với nhau từ lâu lắm rồi. Và trong thực tế, tôi đã có cái may mắn gặp được nhiều người bạn đồng hành mà có thể trao đổi chuyện trò tậm đắc với nhau, chẳng khác gì như trong các dịp tôi đến thăm viếng bạn hữu tại nhà của họ vậy, mà tôi gọi là “vãng gia” (home visit). Dưới đây, tôi xin kể lại một số trường hợp cụ thể gặp gỡ các bạn đồng hành trong các chuyến đi xe lửa vừa mới sốt dẻo vào cuối tháng 6 vừa qua vậy nhé.
1 – Chuyện trò với Eva, sinh viên ngữ học người Đức.
Ngày Thứ Hai 21 tháng Sáu, anh Nguyễn Xuân Sơn chở tôi ra ga xe lửa Rochester NY để đi Worcester MA. Khi lên tàu kiếm chỗ ngồi, thì tôi chọn được một ghế còn trống bên cạnh một cô gái cỡ tuổi 25-26. Sau vài câu chuyện xã giao, tôi thấy cách nói tiếng Anh của cô rất chỉnh, y hệt như của một người Mỹ chính hiệu. Cô gái có thân hình hơi dềnh dàng chứ không được thon gọn son sẻ như của một sinh viên bình thường. Nhưng bù lại thì cô có một khuôn mặt thanh tú với đôi mắt nâu hiền dịu. Cô tự giới thiệu tên là Eva, sinh viên môn ngữ học, sinh trưởng tại nước Đức và hiện đang du lịch khắp nước Mỹ và Canada trong 2 tháng mùa hè. Và thường thì cô đến ở chung nhà với các bạn, chứ không ở tại khách sạn như là một khách du lịch bình thường. Mà đó cũng là cái thói quen của tôi, được gọi là home visit tại nhà của bà con hay bạn bè.
Vì thời gian đi trên xe kéo dài đến 7-8 tiếng, nên chúng tôi đã có thể trao đổi chuyện trò với nhau về đủ mọi lọai đề tài. Eva cho biết cô tuy là người Đức, nhưng lại được sinh sống tại nhiều nơi trên thế giới vừa để đi học, vừa để đi làm. Nhờ vậy mà có nhãn quan rộng mở hơn so với các sinh viên mà it có cơ hội đi đây đi đó như trường hợp của cô. Vì Eva chưa đi tới Việt nam bao giờ, nên tôi phải giải thích cho cô về cái tình trạng của trên 3 triệu người Việt nam ở hải ngọai, đó là những người tỵ nạn chính trị, vì không thể chấp nhận sống với chế độ độc tài chuyên chế cộng sản ở nơi quê hương bản quán của mình, nên đã phải sống lưu vong trên các quốc gia khác. Cụ thể như là trường hợp của chính bản thân tôi lúc này đang phải tỵ nạn trên đất Mỹ vậy.
Tôi trao cho Eva một số tài liệu của Mạng Lưới Nhân Quyền Việt nam, đặc biệt là Bản Tường Trình về Tình Hình Nhân Quyền tại Việt nam trong năm 2009 vừa qua. Eva đã chăm chú đọc các tài liệu này, và đã đặt cho tôi nhiều câu hỏi để nhờ tôi làm sáng tỏ hơn những thắc mắc của cô về tình hình phức tạp ở các nước như Việt nam, Trung quốc v.v…Tôi thấy rõ ràng là Eva có thái độ cởi mở để tiếp thu những lời trình bày của tôi, đặc biệt về vấn đề tranh đấu bất bạo động để đòi hỏi sự công bằng xã hội. cũng như để bảo vệ phẩm giá và nhân quyền cho số đông quần chúng bị khai thác bóc lột và bị kỳ thị áp bức. Ngòai ra, tôi cũng còn chia sẻ với Eva một số đồ ăn mà chị Nguyễn Xuân Sơn đã gói quá nhiều cho tôi lúc tôi lên tàu, điển hình là món xôi với muối mè là thứ mà Eva rất thích vì lạ miệng. Eva cứ tíu tít khen cái tài nấu nướng của các bà nội trợ Việt nam của tôi. Đó thiết nghĩ cũng là một cách thức để giới thiệu về văn hóa Việt nam nữa vậy.
2- Chuyện trò với Gene, một luật sư ở Baltimore.
Ngày 30 tháng Sáu, trên chuyến tàu từ Philadelphia để đi Washington DC, tôi đã gặp và làm quen được với Gene là một luật sư hiện đang hành nghề tại Baltimore. Tình cờ chúng tôi lại vào thẳng toa bán đồ ăn, và chiếm hẳn một bàn còn trống ở đó. Vào gần ban trưa, nên Gene có dề nghị muốn mời tôi một ly café. Tôi gật đầu đồng ý, và Gene đã mua thêm cả bánh ngọt cho Gene và tôi ăn kèm với ly café nữa. Tiếp theo là câu chuyện rôm rả giữa Gene và tôi là hai đồng nghiệp luật sư một trẻ, một già. Gene cho biết cha mẹ anh gốc gác ở Hòa Lan, nên anh có dịp nói được tiếng Pháp, và chúng tôi có nói chuyện với nhau vài câu tiếng Pháp. Gene cũng lại biết cả tiếng Nga, mà tôi thì cũng còn có thể nói lõm bõm vài chữ tiếng Nga tôi đã học sau năm 1975 ở Saigon lúc làm trong Bộ Tư Pháp với ông Trương Như Tảng được mấy tháng.


Vì đọan đường ngắn do Gene phải rời khỏi xe lúc đến Baltimore, nên câu chuyện không thể kéo dài lâu được. Dầu vậy, trong hơn một giờ chuyện trò bên ly café, chúng tôi cũng đã nói với nhau được nhiều điều mà hai bên đều quan tâm, điển hình như về chính sách của Mỹ đối với người di dân, mà hiện đang gây tranh cãi trong dư luận do việc chính quyền tiểu bang Arizona vừa mới công bố luật lệ có tính cách hạn chế ngặt nghèo đối với người di dân. Tôi nói : Bản thân tôi là người mới đến định cư tại nước Mỹ, nên tôi thông cảm với những nỗi khó khăn bế tắc nhọc nhằn và cả tủi nhục của người di dân, và tôi mong ước rằng chính phủ Mỹ sẽ tìm được một giải pháp tương đối thỏa đáng cho vấn đề khúc mắc này.
Dĩ nhiên là tôi cũng cho anh bạn biết về tình hình nhân quyền tại Việt nam hiện nay thì rất là tồi tệ, bởi lẽ chánh quyền cộng sản vẫn ra tay đàn áp nặng nề đối với những người tranh đấu cho Tự do, Dân chủ, cho sự Công bằng Xã hội và Nhân quyền của người dân Việt nam. Tôi cũng biếu Gene bản brochure của Mạng Lưới Nhân Quyền Việt nam, mà tôi là một thành viên họat động, đồng thời tôi cũng ghi địa chỉ e-mail của tôi trên bản brochure đó, để Gene có thể liên lạc thư từ với tôi sau này. Đến trạm Baltimore vào ban trưa, thì chúng tôi chia tay nhau vì Gene phải rời con tàu tại đây.
3 – Glen sinh viên khoa Tâm lý học tại Đại học Notre Dame.
Chiều ngày 30 Tháng Sáu, tôi lại lên tiếp con tàu khác tại ga Union Station quen thuộc ở Washington DC để đi tiếp đến Chicago. Đọan đường này dài gần 1,000 miles, nên con tàu phải đi suốt cả đêm và mãi đến 9.00 sáng ngày 1 Tháng Bảy, thì mới đến thành phố được gọi là “Windy City” này. Tôi ngồi cạnh Glen là sinh viên vừa tốt nghiệp bằng Cao học (M A) về khoa Tâm lý tại Đại học Notre Dame trong tiểu bang Indiana. Chúng tôi đã có nhiều giờ trò chuyện trao đổi với nhau về đủ mọi thứ đề tài. Glen cho biết Notre Dame là một Đại học có đến 20,000 sinh viên và do các linh mục Công giáo thành lập đã lâu. Và theo chỗ tôi biết, thì vào hồi đầu thập niên 1950, cũng đã có một số sinh viên Việt nam theo học tại đây.
Glen còn cho biết sắp sửa di chuyển đến làm việc tại Đại học UC Santa Barbara ở California và dự tính sẽ hòan tất học trình ban Tiến sĩ tại đây trong mấy năm nữa. Qua trao đổi, tôi nhận thấy Glen có một sự hiểu biết khá sâu sắc về các vấn đề triết học cũng như về khoa học xã hội, và chúng tôi đã chuyện trò với nhau khá là tương đắc. Khi tôi cho Glen biết là tôi sắp sửa bước vào tuổi 76, thì anh nói luôn : “Bác cùng tuổi với bà ngọai của cháu đấy!” Tôi có đưa cho Glen coi một số bài tôi viết bằng tiếng Anh, thì anh rất thích bài “Reflexion on My Days in Jail” của tôi viết tại nhà tù Hàm Tân Phan Thiết vào năm 1995, lúc đã ở trong tù 66 tháng rồi. Glen xin tôi cho anh một bản để còn có dịp chuyền cho các bạn cùng đọc nữa.
Sáng sớm ngày hôm sau, thì Glen từ biệt tôi để xuống ga South Bend cũng gần với ga Elkhart, mà trước đó 2 tuần lễ tôi đã đáp tàu để đi tới Rochester thuộc tiểu bang New York thăm anh chị Nguyễn Xuân Sơn. Tôi có dặn Glen câu này : “Thế hệ của tôi đã già nua rồi, chẳng còn có thể làm được điều gì quan trọng đáng kể nữa. Tôi mong rằng lớp trẻ như anh sẽ tiếp nối công việc đang dở dang của chúng tôi và cố gắng mà làm cho tốt hơn lớp người đã già nua như chúng tôi. Như trong tiếng Việt chúng tôi có câu : “ Con hơn cha, nhà có phúc”. Mong lắm vậy thay…” Glen tỏ vẻ cảm động với câu nói này của tôi, và với nét mặt đăm chiêu anh nói với tôi : “Cháu sẽ cố gắng làm hết sức của mình” (I will do my best).
Đại khái, trong suốt cuộc hành trình dài ngày của tôi trên lục địa nước Mỹ từ nhiều năm qua, thì tôi hay gặp được những người già có, trẻ có mà đều có tinh thần cởi mở, phóng khóang như mấy người bạn đồng hành tôi mô tả lại trên đây. Nhờ vậy, mà tôi bớt được những sự nhọc mệt buồn chán, nhất là trong các chuyến đi vào ban đêm khiến cho hành khách không thể nào mà có thể ngủ yên giấc cho thỏai mái dễ chịu như ở tại nhà của mình được. Và như thế, tôi luôn giữ được sự lạc quan và tin tưởng nơi lương tri và sự thiện hảo của con người, mặc dầu trong  xã hội vẫn còn đày dãy những phức tạp và tranh chấp hận thù như ta thấy ngày nay vậy./
Arizona Giữa Tháng Bảy 2010 
Đòan Thanh Liêm

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.