Hôm nay,  

Amen

30/12/201000:00:00(Xem: 7857)

Amen

Trần Văn Giang
Lời mở đầu:
Mùa lễ giáng sinh vừa qua, đi lễ đêm với gia đình, sau khi tan lễ,  trên đường về, trong đầu tôi vẫn  còn văng vẳng những câu kinh và bài giảng phúc âm của buổi lễ khá trang trọng…  và một chữ rất quen thuộc vẫn còn vọng lại từ trong tâm thức. Đó là chữ “Amen.”
Nhìn lại, tôi đã đi lễ cuối tuần cùng với vợ con đã vài chục năm…  đã nghe trên ngàn bài giảng phúc âm; và cũng  nghe, đọc chữ “Amen” đến trên vài ngàn lần mà thật sự chính cá nhân tôi chỉ hiểu lờ mờ ý nghĩa của chữ “Amen.”  Hôm nay có lẽ vì trời California mưa to gió lớn, tôi cắc cớ  hỏi bà cụ tôi, cụ  đã 83 tuổi và đi lễ, đọc kinh cá nhân hay đọc kinh nhóm cùng với các cụ cao niên khác gần như mỗi ngày, về ý nghĩa của chữ “Amen,” Cụ nhìn tôi hơi lạ (có lẽ cụ nghĩ là tôi ấm đầu!) rồi thú thật với tôi là: “Má cũng không rõ.  Để má hỏi lại các Cha cho biết!”
Trong khi chờ đợi câu trả lời “chính qui” của các vị linh mục, tôi dành chút thời giờ sưu lục và viết một bài khảo luận bỏ túi này; mong rằng sẽ đóng góp một hay hai lời giải nghĩa khả dĩ cho chữ “Amen;” Đồng thời cũng xin quí vị quan tâm bổ túc cho ý nghĩa của chữ này được sáng sủa thêm…
TVG
*   
“ ‘Amen’ nghĩa là gì" Và tại sao chữ ‘Amen’ lại được đọc và nghe rất nhiều trong thánh kinh cũng như trong các buổi lễ của Thiên chúa giáo"”
Đầu tiên, chữ “Amen” vì nghe quá quen thuộc làm chúng ta nghĩ là mọi người theo đạo Thiên chúa (Christians) đều biết ý nghĩa của nó!  Sự thật tôi thấy không phải như vậy.  Nhiều người đi lễ nhà thờ thường xuyên vẫn chỉ hiểu chữ “Amen” một cách lờ mờ, đại khái, qua loa… thành thử có nhiều trường hợp chữ “Amen” vô tình bị “lạm dụng;”  có khi lại còn bị hiểu sai nghĩa (là “xin hết / xin chấm dứt” chẳng hạn) mới chết!
Chữ “Amen” nguyên thủy xuất phát từ tiếng “Berber,” một thổ ngữ của Hebrew (tiếng Do thái), nhưng lại được phổ biến rộng rãi trong các ngôn ngữ khác như Hy lạp, La-tinh, Anh ngữ, Pháp ngữ, tiếng Tây ban nha; và nhiều ngoại ngữ khác của các dân tộc có văn hóa không sính (") với Thiên chúa giáo như tiếng Ai cập (“Amen-Ra,” “Amun,” Amounra,” “Amon”), Tây tạng (“Amen”), Ả rập (“Amin”), tiếng Phạn (Hindu Sanskrit – “Aum”)…  
Chữ “Amen” thấy rất nhiều trong cả Kinh Cựu Ứơc và Tân Ứơc; nhưng lại có nhiều ý nghĩa khác nhau tùy vào nội dung của mỗi câu kinh. Phần lớn các nhà thần học đồng ý là, theo tiếng Do thái, chữ “Amen” biến thể từ một chữ gốc là “Aman” có nghĩa là:
“Xác nhận” (“confirm”) một “Chân lý” (verily / truly) “Vĩnh cửu” (“solid in the sense permanency”).
Theo tài liệu khảo cứu, họ quả quyết là chữ “Amen” hoàn toàn phát xuất từ tiếng Do thái (nguyên văn: “It is a pure Hebrew word”).
Nói một cách tổng quát, “Amen” có nghĩa là:
“Với lòng thành; là chân lý, vĩnh cửu.” 
Mỗi khi chữ “Amen” xuất hiện trong thánh kinh, thường ở cuối một câu kinh, để xác nhận một sự thật, một chân lý vĩnh cửu.
Thật lạ, khi truy nguyên gốc của sự sử dụng chữ “Amen” trong Kinh Tân Ứơc, chính Đức Chúa Giê-su trong nhiều trường hợp, thường bắt đầu lời giảng của Người bằng cách lập lại chữ “Amen / Verily” hai lần (chẳng hạn “Amen, Amen,..”) để nhắc nhở cho mọi người rằng lời của Chúa là tuyệt đối đúng (“absolute certainty”) chứ không phải như chỉ thấy ghi một lần ở cuối câu giảng như chúng ta vẫn nghe; và vẫn đọc.
Thí dụ:
“Amen, Amen, Thầy nói cho các con biết là nếu người nào trong các con nhớ lời của Thầy sẽ sống đời đời” (“Verily, verily, I say unto you, if a man keep my saying, he shall never see death…”) (John 8:51). 
Hoặc là lời Chúa Giê-su nói với Thánh Phao-lồ:
“Anh bảo anh sẽ thí mạng cho Thầy" Amen, Amen., Thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần” (“Will you lay down your life for my sake"  Verily, verily, I say onto you, the cock shall not crow, till thou hast denied me thrice.”) (John 13:38).
Nếu so sánh bài giảng đã ghi là “Thầy bảo thật các con” (“Verily (“Amen”), I say onto you….”) (Mark 9:1) bởi Thánh Mark nhưng Thánh Luke lại dịch là “Thầy bảo thật các con” (“But I tell you of “Truth”) (Luke 9:27); Như vậy chúng ta thấy chữ “Amen” là ẩn dụ của chữ “Truth  / Verity.”  Chữ “Verily” (có nghĩa là “Truly,” “Truthfully”) đã được dịch nghĩa theo đúng chữ Do thái là “Amen.”  Lời Chúa Gie-su có thể được viết lại là: “Bằng lời THẬT, Thầy nói với các con là…” (Of a truth / truthfully, I say onto you…).  Thành ra có thể dịch “Amen,” là “Verily,” “Truly,” hay “Truthfully” và ngược lại…
Để hiểu thêm về nghĩa của chữ “Amen,”  chúng ta có thể đọc lại lời Chúa trong các câu kinh khác khác đã dùng chữ “Amen” một cách rất lý thú.  Chẳng hạn:
- Ngôn sứ Jeremirah thay vì dùng “Amen, Amen” (2 lần), Ngôn sứ lại thay thế chữ “Amen” thứ hai bằng một câu, thành ra: “Amen, Ứơc gì Đức Chúa làm như thế…” (“Amen, the Lord do so…”) (Jer 28:6)
- Trong sách I-Sai-A, có một danh xưng của Chúa là: “Thiên Chúa Chân Thật” (“God of Truth”).  Tín hữu Thiên chúa giáo khi đọc kinh lại bỏ chữ cuối (“Truth”) và thay bằng chữ “Amen” (“God of Amen”) (Isaiah 65:16).
- Trong sách “Sử Niên Biên quyền 2” (The Second book of the Chronicles) Thánh Phao-lồ đã nói về Chúa Giê-su như sau:
“Mọi lời hứa của Chúa đều ‘có’ nơi Người ‘Amen’ ” (“For as many as may be the promises of God, in him they are ‘yes’ and in him ‘Amen.’ “) (2Co 1:20)


-  Trong sách Khải Huyền (Book of Revelation) một danh xưng khác của Chúa Giê-su là: “Đấng Amen, Chứng Nhân Trung Thành và Chân Thật” (“The Amen, the Faithful and True witness”) (Rev 3:14).
Như vậy, khi chúng ta nói hay đọc “Amen,” là chúng ta muốn nói:
“Trước mặt Thiên chúa, con xin đồng ý như vậy;
Hoặc là:
“Con tin là sự thật / là chân lý;”
Hoặc là:
“Con luôn luôn mong muốn như vậy.”
Tất cả giống như một lời thề thật trang nghiêm trước mặt Chúa - long trọng và đứng đắn chứ không phải chuyện bỡn, qua loa !
Để cho trọn vẹn theo nghĩa truyền thông hai chiều, tôi xin trình bày thêm vài quan điểm của nhiều nhà thần học thuộc nhóm phản kháng (-con) và một số nhà Ai-câp học (Egyptologist).  Họ phản bác và cho là chữ “Amen” không phải phát xuất từ tiếng Do thái (Hebrew) mà từ tiếng Ai cập (Egyptian origin) – theo tên một vị thần cổ Ai cập là tên “Ammon” hay “Amoun” (Thần Vô hình, Ẩn thần - “the Hidden One,”  “the Hidden God.”).
Họ cho rằng nếu chúng ta để ý thật kỹ (") vào một số câu trong thánh kinh Thiên chúa giáo đã mô tả Đức Chúa Giê-su (both person and spririt) thì thấy là tương tự như người Ai cập đã mô tả và tôn thờ vị “Ẩn thần” (The Hidden One) của họ từ trước Thiên chúa giáng sinh:
Timothy 6: 16
“Chỉ mình Người là đấng trường sinh bất tử, ngự trong ánh sáng siêu phàm, Đấng không một người nào đã  hay có thể thấy: Kính dâng Người danh dự và uy quyền muôn đời. Amen.”
(Who only hath immortality, dwelling in the light which no man can approach unto; whom no man hath seen, nor can see: to whom be honour and power everlasting. Amen).
Revelation (Sách Khải Huyền) 1: 7
“Kìa Người ngự đến giữa đám mây.  Ai nấy sẽ thấy Người, ngay kẻ đã đâm người.  Mọi dân trên mặt đất sẽ than khóc khi thấy Người.  Đúng thế. Amen.”
(Behold, he cometh with clouds; and every eye shall see him, and they also which pierced him: and all kindreds of the earth shall wail because of him. Even so, Amen).
Revelation 1: 18
“Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống muôn đời.  Amen, Ta giữ chìa khóa của Âm phủ và Tử Thần.”
(I am he that liveth, and was dead; and, behold, I am alive for evermore, Amen; and have the keys of hell and of death).
Revelation 3: 14
“Hãy viết cho thiên thần hội thánh Laodikia: Đây là lời của Đấng Amen, là Chứng Nhân trung thành và chân thật, là khởi nguyên của mọi loài Thiên chúa tạo dựng.”
(And unto the angel of the church of the Laodiceans write; These things saith the Amen, the faithful and true witness, the beginning of the creation of God).
Revelation 7: 12
“Amen! Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta lời chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh, đến muôn thuở muôn đời ! Amen.”
(Saying, Amen: Blessing, and glory, and wisdom, and thanksgiving, and honour, and power, and might, be unto our God for ever and ever. Amen).
Revelation 19: 4
“Bấy giờ hai mươi bốn vị kỳ mụcvà bốn con vật phủ phục xuống thờ lậy Thiên Chúa, Đấng ngự trên ngai mà tung hô: Amen! Ha-lê-lui-a.”
(And the four and twenty elders and the four beasts fell down and worshipped God that sat on the throne, saying, Amen; Alleluia).
Revelation 22: 21 (cũng là lời cuối cùng của quyển Thánh Kinh)
“Chúc mọi người được ân sủng của Chúa Gie-su. Amen.”
(The grace of our Lord Jesus Christ be with you all. Amen).
Ngoài ra, nhóm thần học phản kháng này còn cho là Thiên chúa giáo biến thể từ đạo của những người Do thái sống theo văn hóa Hy lạp (hellenistic Jews  -  tuy không phải là người Hy lạp!) vừa thờ phụng các thần Babylon và thờ cả thần của Ai cập"! Vì vậy chữ “Amen” có nguồn gốc từ chữ của Ai-cập cũng không phải là vô cớ! Và còn đi xa hơn nữa, họ cho rằng tín hữu Thiên chúa giáo khi đọc chữ “Amen” là đã vô tình ngưỡng mộ, thờ phụng “Ẩn thần” (“The Hidden One”) của Ai-cập """
Bây giờ trở lại Thiên chúa giáo lề phải…
Bình thân, tín hữu Thiên chúa giáo chúng ta thường bận tâm và lo sợ sẽ mất tiền mất của…  thay vì quan tâm đến phần hồn và đấng cứu thế.  Chúng ta cần phải được nhắc nhở hàng ngày về việc này qua chữ “Amen.”
Chữ và câu /nhóm chữ của ngôn ngữ đã thay đổi theo thời gian.  Mỗi dân tộc sẽ tùy tiện thay đổi các chữ của họ theo các mục đích riêng… nhưng chữ “Amen” mặc dù chưa có một lời giải nghĩa duy nhất nào được nhìn nhận là trọn vẹn, “chính xác,” nhưng chữ “Amen” vẫn còn nguyên vẹn qua hàng chục thế kỷ như thể được Thiên Chúa toàn năng bảo vệ.
Xin Chúa rộng lượng xót thương, dẫn dắt chúng con đến chân lý và thấu hiểu cặn kẽ chữ “Amen” thiêng liêng của Chúa (the Holy Word of God).
Tôi xin phép mượn một câu trong “Thư của Thánh Phao-lồ gởi tín hữu Rô ma” để kết thúc bài này:
“Vì muôn vật đều do Người mà có; nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người.  Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời! AMEN.”
(For of him, and through him, and to him, are all things; to whom be glory for ever. AMEN.” (Romans 11:36)
Trần Văn Giang
Orange County 12/29/2010
_____
Tài liệu Tham khảo:
- Kinh Thánh Việt ngữ  (Trọn bộ Cựu Ứơc và Tân Ước )- Phát hành bởi Tòa Tổng Giám Mục Thành Phố Sài gòn, 1998.
- The Holy Bible (Old and New Testaments) in the King James Version, Red letter Edition - Publisher Thomas Nelson, NY, 1970.
- Wikipedia – the free encyclopedia.
-  … và một số lời bàn rải rác lượm trên mạng.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trước công luận, Eisenhower lập luận là cuộc chiến không còn nằm trong khuôn khổ chống thực dân mà mang một hình thức chiến tranh ủy nhiệm để chống phong trào Cộng Sản đang đe doạ khắp thế giới. Dân chúng cần nhận chân ra vấn đề bản chất của Việt Minh là Cộng Sản và chỉ nhân danh đấu tranh giành độc lập cho Việt Nam; quan trọng nhất là phải xem ông Hồ chí Minh là một cánh tay nối dài của Liên Xô. Đó là lý do cộng đồng quốc tế cần phải tiếp tục hỗ trợ cho Pháp chiến đấu.
Dù vẫn còn tại thế e Trúc Phương cũng không có cơ hội để dự buổi toạ đàm (“Sự Trở Lại Của Văn Học Đô Thị Miền Nam”) vào ngày 19 tháng 4 vừa qua. Ban Tổ Chức làm sao gửi thiệp mời đến một kẻ vô gia cư, sống ở đầu đường xó chợ được chớ? Mà lỡ có được ai quen biết nhắn tin về các buổi hội thảo (tọa đàm về văn học nghệ thuật miền Nam trước 1975) chăng nữa, chưa chắc ông Nguyễn Thế Kỷ – Chủ Tịch Hội Đồng Lý Luận, Phê Bình Văn Học, Nghệ Thuật – đã đồng ý cho phép Trúc Phương đến tham dự với đôi dép nhựa dưới chân. Tâm địa thì ác độc, lòng dạ thì hẹp hòi (chắc chỉ nhỏ như sợi chỉ hoặc cỡ cây tăm là hết cỡ) mà tính chuyện hoà hợp hay hoà giải thì hoà được với ai, và huề sao được chớ!
Lời người dịch: Trong bài này, Joseph S. Nye không đưa ra một kịch bản tồi tệ nhất khi Hoa Kỳ và Trung Quốc không còn kiềm chế lý trí trong việc giải quyết các tranh chấp hiện nay: chiến tranh nguyên tử có thể xảy ra cho nhân loại. Với 8000 đầu đạn hạt nhân của Nga, khoảng 270 của Trung Quốc, với 7000 của Mỹ, việc xung đột hai nước, nếu không có giải pháp, sẽ là nghiêm trọng hơn thời Chiến tranh Lạnh.
Kính thưa mẹ, Cứ mỗi tháng 5 về, nước Mỹ dành ngày Chủ Nhật của tuần đầu tiên làm Ngày của Mẹ (Mother's Day), ngày để tôn vinh tất cả những người Mẹ, những người đã mang nặng đẻ đau, suốt đời thầm lặng chịu thương, chịu khó và chịu khổ để nuôi những đứa con lớn khôn thành người.
Khoảng 4.500 người đã được phỏng vấn, trong đó có khoảng 700 người gốc Á. 49% những người được hỏi có nguồn gốc châu Á đã từng trải qua sự phân biệt chủng tộc trong đại dịch. Trong 62 phần trăm các trường hợp, đó là các cuộc tấn công bằng lời nói. Tuy nhiên, 11% cũng bị bạo hành thể xác (koerperliche Gewalt) như khạc nhổ, xô đẩy hoặc xịt (phun) thuốc khử trùng.
Nguyệt Quỳnh: Anh còn điều gì khác muốn chia sẻ thêm? Trịnh Bá Phương: Trong cuộc đấu tranh giữ đất, nhóm chúng tôi đã tham gia các phong trào khác như bảo vệ cây xanh, bảo vệ môi trường, tham gia biểu tình đòi tự do cho các nhà yêu nước, tham gia các phiên toà xét xử người yêu nước bị nhà nước cộng sản bắt giam tuỳ tiện. Và hướng về biển đông, chống sự bành trướng của Bắc Kinh khi đã cướp Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam! Và mới đây là phản đối bè lũ bán nước đã đưa ra dự luật đặc khu và dự luật an ninh mạng.
Có một câu thần chú mới mà các nhân viên FBI đã khuyên tất cả chúng ta phải học thuộc và nên áp dụng trong thời đại này. Thời đại của cao trào xả súng đang diễn ra khắp nơi ở Hoa Kỳ. Xin giới thiệu cùng bạn đọc một bài viết hữu ích của nữ ký giả Alaa Elassar của đài CNN đang được đăng tải trên liên mạng. Cô đã nêu ra những lời khuyên rất cần thiết cho chúng ta, căn bản dựa trên những video clips huấn luyện và đào tạo nhân viên của FBI.
Since I arrived in the United States in “Black April” of 1975 (the Fall of Saigon) and had been resettled in Oklahoma City to date, I have had two opportunities to go back to schools. The first one I studied at Oklahoma City University (OCU) for 5 years and received my degree in 1981. Having to work during day time, I could only go to school in the evening.
Như vậy, từ hiện tượng đảng viên “quay lưng” lại với đảng đến chuyện dân bỏ mặc mọi việc cho nhà nước lo cho tới chuyện thanh niên, rường cột của Tổ quốc, cũng “khô đoàn” và “nhạt đảng” thì điều được gọi là “nền tảng Tư tưởng đảng” có còn gốc rễ gì không, hay trốc hết rồi?
Niềm vui trong Ngày Hội Ngộ, với đặc san được quý nương “khen” còn mấy ông già chồng chỉ gật gù “mầy giữ gìn sức khỏe để tiếp tục”. Tháng 5 năm 2020 và tháng 5 năm nay vì cái dịch Covod-19, không có cơ hội gặp nhau. Dù “ghét cay ghét đắng” mấy ông già chồng hành hạ “con dâu” nầy nhưng không được dịp hội ngộ với nhau, nhớ nhiều.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.